Sử thi
ĐẤT NƯỚC TIÊN RỒNG
Chương 1 - TRÁI ĐẤT THUỞ HỒNG HOANG , SỰ SỐNG THỜI TIỀN SỬ
1.1- VỤ NỔ BIGBANG
Từ trong vũ trụ bao la
Nhiều tỷ năm trước đây là thời gian
Việt Nam gọi : nổ kinh hoàng
Âu Phi gọi nổ Bigbang trên trời
Ngàn ngàn tỷ tỷ mảnh rơi
Bay đi lơ lửng khắp nơi thiên hà
Trái đất này của chúng ta
Chính là một mảnh vỡ ra vụ này
Tồn tại cho đến ngày nay
Là nhờ quỹ đạo đường bay tuyệt vời
Bay quanh cầu lửa Mặt trời
Nóng sôi đốt cháy tơi bời chói chang
Hình thành Núi lửa tuôn tràn
Bề mặt Trái đất dung nham chảy dài
Quả cầu Trái đất quay hoài
Nửa sáng nửa tối thành hai vùng miền
Nửa này sáng nửa kia đêm
Thái Dương hệ mấy chị em quay cùng
Hải Thiên Vương giữa vòng cung
Sao Mộc Sao Hỏa cũng cùng đường bay
Thái Dương hệ nói ở đây
Mặt trời đứng giữa phân ngày và đêm
Sao Thổ Sao Hỏa Sao Kim
Mặt trăng Trái đất bay tìm đuổi nhau
Dải Thiên hà những Chùm sao
Bấy lâu phát sáng soi nhau trên trời
Con người muốn đếm sao rơi
Phải chăng mỏi mắt hết đời không xong
Thiên hà không phẳng chẳng cong
Như hình Enlíp nối cung hành trình
Không gian tỷ tỷ hành tinh
Thiên hình vạn trạng to phình bé teo
Mặt Trời rọi nắng trên cao
Phát sáng rực rỡ hơn sao Thiên hà
Địa cầu Trái đất chúng ta
Không tự phát sáng nhưng mà chậm quay
Năm tỷ năm trước đến nay
Trái đất dần nguội phủ đầy tuyết băng
Hình thành sông suối bãi bằng
Thành Biển thành Núi, cánh đồng bao la...
1.2 - XUẤT HIỆN SỰ SỐNG THỜI TIỀN SỬ
Hai tỷ năm trước chúng ta
từ phân tử đã hóa ra Đơn bào ( Sinh vật đơn bào )
hai tỷ năm kế tiếp theo
tiến hóa sinh vật Đa bào phôi thai
( Sinh vật đa bào )
hai tỷ năm kế tương lai
tiến hóa động vật vài loài giản đơn
một tỷ năm tiến gần hơn
vô số loài cá giản đơn dưới hồ
xuất hiện thảo mộc sợi tơ
lưỡng cư xuất hiện lập lờ dưới trên ( động vật sống lúc dưới nước lúc trên bờ )
bò sát xuất hiện ngang nhiên
nhiều loài to lớn đâu tiên trên bờ
thời tiền sử lúc bấy giờ
Khủng long xuất hiện vật vờ rất đông
họ cây dương sỉ to đùng
mọc thành rừng rậm khắp vùng đầm hoang
vào thời kỷ đại cổ sinh
( kỷ đại cổ sinh của trái đất)
bề mặt Trái đất như phình nở ra
tán cây tựa những mái nhà
che mưa chắn bão sống qua tháng ngày
Các loài bò sát kỷ này
dần dần tiến hóa biết bay lên trời
lúc ẩn lúc hiện khắp nơi
lan tràn mặt đất bầu trời bao la
bỗng nhiên chuyện lớn sảy ra
va chạm mảnh vỡ Thiên hà đương bay
rồi va vào Trái đất này
vỡ thành một mảnh Trăng bay lên Trời
cái nóng thiêu đốt lửa Giời
thế là trái đất đi đời khủng long
nhiều loài đã bị diệt vong
chẳng còn một mống trong vòng gang tay
bề mặt trái đất từ đây
tiệt loài bò sát lớn này lạ chưa
trải qua mưa nắng cổ xưa
bão giông bồi đắp xương chưa biến dần
để rồi hóa thạch vĩnh hằng
nhờ lực hấp dẫn Mặt Trăng hút vào
nhiệt độ Trái đất giảm cao
nhiều tỷ năm trước tiến vào gần nhau
hình thành quỹ đạo địa cầu
lực hút lực đẩy nhiệm màu gần .. xa
phần nào giúp Trái đất ta
ổn định nhiệt độ để mà sinh xôi
chục triệu năm trước ta thôi
quá trình tiến hóa phân ngôi các loài
từ một phân tử nhỏ nhoi
thời gian tiến hóa thành người chúng ta
loài Người vượn được sinh ra
từ thời tiền sử ấy là tổ tiên
hơn hẳn các loài kể trên
sống trong hang động thiên nhiên qua ngày
biết bám vào những cành cây
hái lá hái quả sống ngày hồng hoang
cụm thành cuộc sống bầy đàn
đó là thử thách gian nan thời này
tựa nhau săm bắt hái cây
cùng chống thú giữ những ngày bất an
cái đói cái rét cơ hàn
cuộc sống nguyên thủy vô vàn gian truân
100
bóc vỏ cây để che thân
ăn hang ở lỗ lông dần đổi thay
tỷ năm biết mấy tháng ngày
mưa giông sấm sét cháy cây cháy rừng
lấy lửa về sưởi đêm đông
cho thú dữ sợ mà không dám vào
biết tìm lửa chốn núi cao
từ những hòn đá gè vào với nhau
tạo ra công cụ ban đầu
chiếc rìu bằng đá nhiệm mầu thô sơ
chặt cây đào củ đắp bờ
rời hang kiếm sống xuống bờ dòng sông
đồng bằng bắc bộ sông hồng
vùng thanh hóa rộng mênh mông biển trời
dọc triền sông Mã sinh sôi
lâu dần phát triển quanh nơi đầm lầy
hai vạn năm trước ngày nay
cuộc sống hoang dã người ngày càng khôn
bộ não đã phát triển hơn
thức ăn nướng chín trí khôn rõ ràng
xa dần cuộc sống trong hang
cách thức quản lý ngày càng tốt lên
hợp thành bộ lạc vững bền
công xã thị tộc đầu tiên hình thành
một xã hội sống cộng sinh
lang thang du mục lênh đênh mọi miền
năng động chẳng chút ở yên
săn bắt đào củ mọi miền đồng hoang
đã biết giữ lửa ấm hang
mài rìu đá sắc chặt phang đẽo cày
sáu ngàn năm trở lại đây
kỹ thuật đục đá bằng tay ra đời
tìm ra một loại cây trời
cho bông cho hạt loài người đổi thay
biết trồng lúa cạn từ đây
vật trao vật đổi sang tay hình thành
bắt đầu có sự giao tranh
cướp nhau hỗn loạn giật dành này kia
Thế rồi có sự phân chia
thứ này vật nọ cái kia trong bầy
cuộc sống xáo trộn đổi thay
người cổ biết họa hình này hình kia
vẽ lên hang đá lia đìa
nội dung sinh hoạt canh khuya thường ngày
cầm công cụ ở trên tay
đương trong tư thế hăng say miệt mài
những hình vẽ đã phôi thai
tư duy nghệ thuật loài người cổ xưa
qua bao dâu bể nắng mưa
người cổ để lại như vừa không lâu
hành trình tiến hóa thấm sâu
ngôn ngữ xuất hiện bắt đầu được ghi
văn minh đã được phát huy
xuất hiện ký hiệu thời kỳ sơ khai
đếm bằng hòn sỏi củ khoai
vậy là số đếm một hai hình thành
tuy rằng tiến hóa chưa nhanh
nhưng người cổ đại văn minh hơn nhiều
đã biết sát cánh cùng nhau
chiếm vùng đất lớn địa đầu núi non
vùng bãi sông lớn sông con
cấy trồng lúa cạn dù còn hoang sơ
lấy thân cây đổ chơ vơ
làm lều lán ở xa bờ hang sâu
chủ động trồng cấy hoa mầu
cất dấu củ quả dài lâu ăn dần
từ trong lao động gian truân
tìm tòi sáng tạo tự thân mày mò
quá trình vất vả cam go
đồ gốm đã được bất ngờ tạo ra
nặn làm dụng cụ trong nhà
cái vò cái vại sinh ra thời này
cái nồi bằng gốm nặn tay
dùng để nấu nước hàng ngày người ăn
ba ngàn năm trước công nguyên
đồ đồng kim loại đột nhiên ra đời
kiên trì sáng tạo loài người
gian lao trí tuệ mỉm cười ngẩng cao
ơn Trời trả những công lao
từ nay cuộc sống bước vào đổi thay
Loài Người rẽ bước từ đây
tiến lên vượt bậc hơn ngày ở hang
công cụ cũng được rẽ ngang
lưỡi cày lưỡi cuốc chuyển sang đồ đồng
đồ đá đã xếp vào trong
cất đi sáng tạo kỳ công Loài Người
biết bao công sức cùng trời
lưỡi cày rìu đá một thời trên vai
năng xuất lao động gấp hai
sức Người đã kéo thay hoài sức trâu
thời kỳ cực khổ dài lâu
vì Người chưa biết dùng trâu kéo cày
gian nan cực nhọc đọa đày
đến khi biết dậy trâu cày ruộng sâu
truân chuyên vất vả nhuốm mầu
cái đói cái khổ quá lâu khá dài
kỳ công tìm kiếm miệt mài
ngàn năm kế tiếp tương lai khởi đầu
bắt những con thú rừng sâu
con dê con chó con trâu con gà
200
con bò con ngựa con la
từ trong rừng thẳm lùa ra bắt về
chặt cây quây lại bốn bề
vực trâu cày khéo dồn dê nhốt chuồng
thuần dưỡng động vật đi đường
bắt con ngựa buộc dây cương trói vào
củ mỳ củ bắp núi cao
đưa về thuần hóa trồng vào vạt nương
ngày đêm chăm chút yêu thương
cây cho hoa trái vụ thường bội thu
lo thoát cái đói cái ngu
phòng khi bĩ cực nạn thù tai ương
đưa cây lúa cạn trên nương
cấy xuống ruộng nước mở đường văn minh
tập quán lúa nước hình thành
lắn dòng chặn đập đắp thành hồ ao
bao nhiêu vất vả gian lao
hồ trong nước mát đưa vào canh nông
đào kênh đẫn nước tưới đồng
khai hoang vỡ đất cấy trồng lúa xanh
thời “ tiền sử” bước qua nhanh
thời “sơ sử” đã hình thành phôi thai .
loài người hướng tới tương lai
223
Chương 2 – SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC CỔ ĐẠI TRƯỚC CÔNG NGUYÊN VÀ TRUYỀN THUYẾT TIÊN RỒNG.
2.1 – SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC THỜI CỔ ĐẠI THUỞ SƠ KHAI.
Quá trình tiến hóa lâu dài
Người nguyên thủy đã ra ngoài hang sâu
Sơ khai cuộc sống thủa đầu
Cam go vất vả nhuốm mầu gian nan
Sông sâu vực thẳm gió ngàn
Sống miền hoang dã muôn vàn hiểm nguy
Khó khăn cực nhọc đường đi
Nuôi trồng thất bát thường thì xảy ra
Loài người đã biết dựng nhà
Cùng nhau hợp sức vượt qua sông dài
10
Lên rừng lấy nứa lấy mai
Ghép thành mảng lớn vươn ngoài bờ xa
Vào gần chân núi rừng già
Khai phá nương rẫy làm nhà trồng cây
Chỗ kia nơi nọ chốn này
Thôn tính dành giật mỗi ngày càng đông
Xảy ra cướp đất tranh công
Gây bao loạn lạc người không thể ngờ
Xã hội thời buổi bấy giờ
Công xã thị tộc vỡ bờ rối ren
20
Xung đột hỗn loạn triền miên
Các thị tộc mạnh nổi lên mọi miền
Loài Người chẳng được sống yên
Cùng nhau chia đất các miền tự coi
Nước Việt cổ đại ra đời
Gồm nhiều bộ lạc sống nơi sông hồ
Núi đồi cao thấp lô nhô
Cư dân sinh sống bấy giờ canh nông
Dọc miền duyên hải sông hồng
Dông Chu ,sông Mã phía trong Ninh bình
30
Đồ đồng phát triển rất nhanh
Con Người đã biết đúc thành trống to
Thúc vang chiến trận reo hò
Dùng trong tế lễ cầu mùa yên dân
Tiếng chiêng trống gọi xa gần
Chiến tranh bộ lạc lại dần nổ ra
Miên man khói lửa sót xa
Yếu bị mạnh diệt đốt nhà thương đau
Cướp đi tất cả bò, trâu
Củ quả lúa gạo rau mầu ruộng nương
40
Giết nhau đẫm máu chiến trường
Mở mang bờ cõi biên cương cho mình
Chế độ lô lệ hình thành
Hợp nhất bộ lạc uy danh đứng đầu
Tựa vai sát cánh cùng nhau
Sơ khai nhà nước mở đầu từ đây
2.2- PHÁT TÍCH THỦY TỔ VÀ TRUYỀN THUYẾT CÁI BỌC TRĂM TRỨNG,CÁC VUA HÙNG DỰNG NƯỚC
Truyện rằng thủy tổ người nam
Trước công nguyên đến làm quanTriều đình
Phía nam chân núi Ngũ Ninh
Dáng hình tư chất thông minh hơn người
50
Tên là :“Lộc Tục”sáng ngời
( phả hệ ghi là : Hùng Dương)
Làm Vua Nước Việt - sau đời Đế minh
v
Vóc người quắc thước uy linh
Kinh Dương Vương - hiệu Vua mình trời nam
Diệt trừ hung bạo quan tham
Cho dân cày ruộng được làm bình yên
Năm nhâm tuất - trước công nguyên ( năm 2879 )
Lấy con gái của vua hiền Thần Long
Sinh ra “Sùng Lãm ”nối dòng
( phả hệ ghi là : Hùng hiền )
Xưng Vương là: Lạc Long Quân trị vì
60
Long sàng bệ vệ uy nghi
Xuân vui vua đã tuyên phi vào hầu
Mẹ Âu Cơ sớm mang bầu
Sinh ra bọc trứng đếm đầu một trăm
Mẹ Tiên như thể Trăng rằm
Một trăm trứng nở một trăm con hiền
Chân tay cơ bắp cuộn lên
Long Quân dũng mãnh tất nhiên là Rồng
Âu Cơ than thở vua chồng
Hai mệnh thủy hỏa Tiên - Rồng khắc nhau
70
Long Quân toan tính trước sau
Chia nhau xuống biển chia nhau lên rừng
Trăm con phấn khởi tưng bừng
Cùng nhau băng thác vượt rừng gian lao
Năm mươi con ở núi cao
theo mẹ khai khẩn đất vào rừng xanh
Năm mươi xuống biển lên ghềnh
Cùng cha chài lưới dập dềnh trùng khơi
Đối mặt cùng Đất cùng Trời
Đó là Thủy tổ của người Việt xưa
80
Tiên Rồng Bách Việt nối vua
Là người con của Âu Cơ - Vua Hùng
Vua hiền đức tính bao dung
Định đô dựng nước ở vùng Châu phong ( nay thuộc phú tỉnh phú thọ )
Dòng dõi con cháu Thần Long
Thông minh tự thủa trong lòng Âu Cơ
Theo cha lên thác xuống bờ
Truyền ngôi con trưởng phụng thờ Tổ tiên
Dưới chân Nghĩa lĩnh dựng đền
( Núi nghĩa lĩnh nay có đền thờ vua Hùng )
Ngôi Vương tước vị tương truyền bá quan
90
Lạc hầu lạc tướng quan lang
Từ đây tận tụy giữ an dân lành
Một ngày trời đất trong xanh
Lập lên nhà nước gọi thành Văn Lang
Mười năm bộ lạc an khang
Có quan cai trị kinh bang hiền tài
Cha truyền con nối lâu dài
HùngVương dựng nước rạng ngời trời nam
2.3 - TRUYỀN THUYẾT THÁNH GIÓNG DẸP GIẶC ÂN.
Đến đời thứ sáu Hùng Vương ( phả hệ ghi là đời : HùngHuy )
Văn Lang hiểm họa tai ương giặc thù
100
Giặc Ân mạnh tựa bão to
Vua quan lo lắng đắn đo rối bời
Tìm người đánh giặc mọi nơi
Loan tin đi khắp bộ ngoài bộ trong
Quan, dân trăm họ nóng lòng
Cùng nhau chuẩn bị đề phòng giặc Ân
Bấy giờ ở bộ Võ Ninh
Có nhà giàu có nhưng sinh muộn mà
Sáu hai tuổi , mới làm cha ( 62 tuổi )
Sinh ra cậu bé lên ba chẳng cười
10
Không hề biết nói một lời
Cả ngày ngửa mặt lên Trời ngắm Trăng
Vào đêm Trăng sáng ngày rằm
Nghe rao sứ giả đang nằm dậy ngay
Bỗng nhiên biết nói mới hay
Cho đòi sứ giả hỏi ngay truyện gì
Vui mừng sứ giả tâu vì
Giặc Ân cướp nước vua thì lo toan
Thưa rằng sứ giả bình an
Ngươi về tâu với vua quan Triều đình
20
Một con ngựa sắt thật tinh
Một cây gậy sắt cho mình ta thôi
Nghe lời cậu bé tâu đòi
Mừng vui sứ giả bồi hồi về cung
Tâu lên với đứcVua Hùng
Văn lang tướng trẻ vẫy vùng hiển linh
Đức Vua vì nước quên mình
Cho rèn ngựa sắt nhà binh xong rồi
Mài gươm cho sắc lòng người
Cùng nhau giết giặc giữ trời Nước nam
30
Đó là những việc cần làm
An lòng dân của người nam rối bời
Từ khi sứ giả đi rồi
Mỗi ngày cậu lớn cùng nồi cơm to
Sức vươn cao tựa cây trò (tên một loại cây gỗ to rừng già )
Một mình quật ngã hổ bò báo trâu
Cha cậu thấy lạ liền tâu
Xin vua quan phải sửa mau nhà mình
Bởi là cậu lớn quá nhanh
Chỉ cần chạm nhẹ đổ kềnh nhà ra
40
Thế rồi sứ giả đến nhà
Trao cho ngựa sắt vừa qua cậu đòi
Gươm kia cậu tuốt ra rồi
Nhảy lên lưng ngựa quất roi tìm thù
Gầm trời vùng đất Tiên du
Bắc ninh khói lửa bụi mù cát bay
Gầm vang tiếng ngựa nơi này
Miệng phun ra lửa cháy cây tre ngà
Giặc Ân thấy vậy kéo ra
Chủ quan khinh cậu chỉ là bé con
50
Ngờ đâu khi cậu ra đòn
Chém giặc như chuối hoảng hồn chạy xa
Bất ngờ cây gậy gãy ra
Nhổ luôn những cụm tre ngà đánh nhau
Như trời ban phép nhiệm mầu
Thần thông biến hóa công đầu Nước Nam
Sức mạnh vũ bão siêu phàm
Giặc Ân quỳ gối xin hàng mới thôi
Sau khi dẹp giặc Ân rồi
Về làng Phù Đổng lên đồi Sóc Sơn
60
Chẳng cần đợi được Vua ơn
Đúng ngày mồng tám bay luôn về Trời
Lòng dân ơn mãi muôn đời
Hằng năm mở hội dưới trời Sóc Sơn
Trước là lễ tạ công ơn
Sau là rửa hận oán hờn giặc Ân
Cho đời mãi nở mùa xuân
Thánh Gióng bất tử mãi gần trong ta
2.4 - VUA HÙNG KÉN RỂ VÀ TRUYỀN THUYẾT SƠN TINH THỦY TINH
Tới đời mười tám Hùng vương (phả hệ là : Hùng Duệ.)
Có nàng công chúa Mỵ nương giáng trần
70
Đúng là quốc sắc giai nhân
Nết na thùy mỵ mười phân vẹn mười
Mày ngài mắt phụng xinh tươi
Vua Hùng kén rể chọn người tài ba
Thế là có chuyện sẩy ra
tranh nhau làm rể vua cha rối bời
Sơn Tinh vốn thích ăn chơi
Ngao du cùng núi cùng trời Tản viên
Có nhiều phép thuật thôi miên
Tinh thông biến hóa gió miền núi cao
80
Ngón tay chỉ đến hướng nào
Hướng ấy hóa núi non cao ngất trời
Thủy tinh mãi tận biển khơi
Cũng tài chẳng kém dưới trời hô to
Gọi mưa ,gọi gió ,hét hò
Ngênh ngang chẳng kém những trò sơn tinh
Vua cha đành phải điều đình
Hẹn ai đến trước thuận tình gả cho
Lễ vật Vua cũng thách to
Một trăm ván nếp trăm giò bánh trưng
90
Mang gà chín cựa sau lưng
Vua cha ngự trước khi bưng lễ vào
Tiếp là ngựa chín hồng mao
Kèm theo vàng bạc dắt vào trong cung
Mang theo kiệu rước dâu cùng
Voi chín ngà trắng bước chung một hàng
Sơn tinh nhanh nhảu mang sang
Sớm hơn một tý rước nàng Mỵ nương
Thủy tinh đến chậm giữa đường
Nổi cơn ghen tỵ chẳng nhường đường cho
200
Phù phép dâng nước ngập bờ
Ngập hết đường cái để chờ sơn tinh
Hai bên nổi trận lôi đình
Chanh nàng công chúa đẹp xinh về mình
Sơn tinh sợ mất người tình
Hô núi đổ nấp thủy tinh chặn dòng
Chẳng hề lao núng trong lòng
Thủy tinh vẫn quyết dâng dòng nước cao
Sơn tinh sấm sét đánh vào
Thủy tinh trùn bước phải chào thoái lui
10
Dù cho đã bại trận rồi
Trong lòng còn vẫn chưa nguôi báo thù
Mỗi năm trước tiết mùa thu
Thủy tinh lại nhớ mối thù sơn tinh
Nước dâng cướp lại mối tình
Gây bao ngập lụt dân mình khổ đau
Những mong trời đất nhiệm màu
Cho dân thoát khỏi nỗi đau thù tình..
2.5 - THỤC VƯƠNG VÀ NƯỚC ÂU LẠC, CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƯỢC
HùngVương định gả Mỵ Nương
Tổ tiên Thục Phán - Thục Vương cầu hòa
20
Kết tình hòa hữu hai nhà
Tình nồng duyên thắm mặn mà uyên ương
Trai tài gái sắc yêu thương
Quê hương nhà Thục dặm trường Tứ xuyên ( nay là một vùng ở trung quốc )
Muốn cho dân Việt được yên
Nghe lời tướng sỹ người hiền can ngăn
Vua Hùng chẳng chút băn khoăn
Gật đầu hủy cuộc hôn nhân tầy đình
Thục Vương căm tức hận tình
Viết di chúc dặn cháu mình đời sau
30
Cho Văn Lang ngấm nỗi đau
Giết dân cướp nước đời sau Vua Hùng
Lạc Việt binh mạnh tướng trung
Thấy quân Thục Phán đùng đùng kéo sang ( Cháu của Thục Vương )
Vua cùng văn võ bá quan
Cùng cười khinh địch tự quàng phải dây
Ăn chơi tiệc nhậu tối ngày
Chẳng lo phòng thủ để nay phải đòn
Quân Thục đánh đã gần hơn
Quan quân Bách Việt trống trơn đầu hàng
40
Khi nghe lời tấu gọi hàng
Vua Hùng chưa tỉnh vẫn bàng hoàng say
Thế là chẳng kịp trở tay
Nhà Vua phải nhảy xuống ngay sông làng
Từ đây mất nước Văn Lang
Mười năm bộ lạc đầu hàng Thục quân
Năm giáp thìn - trước công nguyên ( năm 257 )
Thục Phán thắng trận dẹp yên mọi bề
Trước dân Bách Việt tựu tề
Xưng vương Thục Phán rời về Phong châu
50
Kinh đô Âu Lạc khởi đầu
Bạch hạc Phú thọ nhuốm mầu cờ hoa
Đặt lại quốc hiệu nước nhà
Ghép tên hai nước xưng là như sau
Âu việt tên cũ từ lâu
Lạc việt cũng vậy ghép nhau thành vần
Ngàn tay vẫy lá cờ thần
nước Âu Lạc mới muôn dân đón chờ
Gian ngoan kẻ địch ai ngờ
Khi quân Âu Lạc mở cờ đón xuân
60
Doanh Chính vua của nước Tần
Xuân thu chiến quốc hợp quân mà thành
Cậy lớn phát động chiến tranh
Xâm lăng cát cứ bạo hành nổi lên
Xuân tân tỵ trước công nguyên ( năm 218 )
Hoa rừng nở ngát hương miền trời nam
Doanh Chính trỗi dậy lòng tham
Xua quân tiến đánh nước nam thanh bình
Chia thành năm đạo quân binh
Lính năm mươi vạn dập rình kéo sang
( 50 vạn quân )
70
Muốn quân xuống được phương nam
Vào đất Âu Lạc phải làm con kênh
Đào sông Lương chở quân mình ( Tên sông đào nhà tần đào để chở quân binh vào Âu lạc )
Đồ Thư là tướng dẫn binh đi đầu
Thống lĩnh được đất Tây âu ( vùng tây á ngày nay )
Giết nhiều tù trưởng bêu đầu chợ trưa
Vua Tần sảo quyệt lọc lừa
Con dân Âu Lạc không chừa một ai
Bị vua Thục Phán bắt bài
Không thèm kháng cự lánh hoài rừng sâu
80
Bảo toàn lực lượng làm đầu
Đợi Đồ Thư đến đánh nhau tơi bời
Con dân Âu Lạc vâng lời
Vườn không nhà trống làm nơi bẫy thù
Nấp trong núi thẳm âm u
Rừng xanh lương náu giết thù xưa nay
Quân Tần lâm trận bị vây
Đường xa mệt mỏi là ngày diệt vong
Thục Vương chắc thắng yên lòng
Tung quân ra đánh chỉ trong mấy ngày
90
Quân Tần không kịp trở tay
chết năm mươi vạn phơi thây đầy đồng ( 50 vạn bị chết )
Giặc Tần đã được dẹp xong
Thục Phán thực sự được lòng muôn dân
Quân cơ nắm trọn xa gần
Mùa xuân lại nở trong ngần trời nam
Tuyên rằng : Doanh Chính chớ tham
Cho muôn dân của nước nam thanh bình
Một ngày xuân đẹp lung linh
Thục Vương ban lệnh xây thành Cổ loa…
300
Chương 3 - NHÀ THỤC VÀ SỰ TÍCH LOA THÀNH
3.1 -THỤC PHÁN XÂY THÀNH CỔ LOA.
Thục vương cùng đại quân ta
Con dân bách Việt thật thà xinh tươi
Chung tay đắp lũy xây đời
Loa thành thẳng hướng mặt trời vươn cao
Chín vòng chiến lũy khó vào
Chu vi trăm trượng đất cao trường thành
Chung quanh đào rộng làm kênh
Nước sâu thăm thẳm mông mênh chặn thù
Năm nào cứ đến mùa thu
Tòa thành lại đổ như thù chặt chân.
10
Vua quan cho trí thần dân
Cùng nhau quỳ lạy thần linh trợ phù
Một ngày xanh ngát trời thu
Rùa thần xuất hiện trợ phù Dương Vương
Bò đi bò lại vẽ đường
Bày cho kế sách Dương Vương đắp thành
Xong rồi rùa bỗng biến nhanh
Chẳng còn xuất hiện ở thành từ đây
Rồng như gặp nước gặp mây
Vua tôi Âu Lạc chung tay đắp thành.
20
An Dương Vương thật tinh anh
Hợp lòng dân lại đắp thành Cổ loa
Chống thù giữ nước coi nhà
Kín trên bền dưới lòng ta vững bền
Như thành dùng đá xây nền
Muôn năm nền móng vững bền lòng dân
Đi theo kế sách rùa thần
Tướng quân Cao Lỗ* dậy dân đắp thành
( *Danh tướng thời An Dương Vương )
Trước đào kênh nước lung linh
Thuyền bè qua lại quân binh ra vào.
30
Thủy binh hùng mạnh biết bao
Sông tiếp Sông ngũ* thông vào Hoàng giang ( *Đoạn Sông Hồng nối vào sông thương xưa )
Thuyền bè qua lại song hàng
Nối vào Sông hát về ngang Kinh thành
Cổ loa cao đẹp long lanh
Vua ban tuyển mộ thợ lành mọi quê
Thợ mộc phải giỏi tay nghề
Đóng nhiều thuyền lớn dễ bề giao thương
Lo xa tránh những tai ương
Nhà vua truyền lệnh rèn thương,đao nhiều
40
Phòng khi giặc giã đánh liều
Thừa cơ xâm lược là điều xảy ra
Bấy giờ cũng tại Cổ loa
Đúc đồng cũng được vua nhà lập lên
Lệnh cho đúc những mũi tên
Hàng ngàn vạn chiếc Nỏ Liên* sẵn sàng ( * tên gọi loại nỏ thời an dương vương )
Chờ khi quân địch tràn sang
Nỏ thần dàn sẵn hàng ngang đợi thù
Nước Tần bão nổi mịt mù
Ngai vàng Doanh Chính* bay vù mất ngôi ( * Vua nước tần xưa )
50
Lầm than khổ cực gầm trời
Nước Tần loạn lạc vua tôi bất hòa
Nhiều truyện lớn đã sảy ra
Tranh ngôi đoạt vị trong nhà nguy nan
Bấy giờ ở quận Hải an
Thuộc Châu nhỏ bé phía nam nước Tần
Một quan nhỏ bé gần dân
Dương dương tự đắc bá quân iêng hào
Tên là châu úy Nhâm Ngao
Dẫn quân xâm lược đánh vào Thục Vương.
60
Nhưng khi đi được nửa đường
Nhâm Ngao lâm bệnh bi thương về nhà
Khi chết gọi tướng sỹ ra
Giao binh quyền lại Triệu Đà lên thay
Binh phù đã lọt vào tay
Quân hùng tướng mạnh đợi ngày tấn công
Heo may trong tiết gió đông
Triệu Đà phát lệnh tấn công phá rào
Nỏ thần ta phục trên cao
Tên bắn ào ào chẳng kịp trở tay.
70
Triệu Đà bị mắc vòng vây
Bỏ luôn cả đạo quân này thoát thân
Đắng cay thất bại nhiều lần
Lý do thua trận nguyên nhân thế nào
Thục Phán phục sẵn trên cao
Nỏ thần đợi sẵn giặc vào giết ngay
Triệu Đà hư thực chưa hay
Cho quân tìm hiểu mưu này Thục Vương
Sai con Trọng Thủy mở đường
Xin làm con rể Thục Vương cầu hòa
80
Thục Vương mắc kế Triệu Đà
Gả cho công chúa tên là Mỵ Châu
Trọng Thủy con rể thỉnh cầu
Xin được ở rể phụng hầu Thục Vương
Bỗng dưng Thục Phán mở đường
Cho quân thù đến gậm giường cung Vua
Chưa hay chưa biết bị lừa
Mưu sâu kế độc mới vừa không lâu
Tướng quân Cao Lỗ thỉnh cầu
Thục Vương gạt phắt lời tâu hạ thần
90
Trọng Thủy giả đạo ân cần
Đem lời nịnh hót cầu thân trẻ già
Trước là hữu hảo giao hòa
Sau thôn tính nước Triệu và Mỵ Châu
Đêm đêm lén lút cầm đầu
Dỗ dành công chúa Mỵ Châu đẫn đường
Bên ngoài mặt giả bộ thương
Trong lòng ngầm ngấm tìm đường hại nhau
Ngây thơ công chúa Mỵ Châu
Dẫn đường Trọng Thủy lên đầu thành xem.
100
Ngọt lời đường mật dịu êm
Mỵ Châu đưa tót đến xem nỏ thần
Thế là hại nước hại dân
Trọng Thủy thấy nỏ cứ đần người ra
Lấy cắp nỏ vác về nhà
Trong lòng khấp khởi tìm cha Triệu Đà
Tâu lên với đức Vua cha
Nỏ liên con lấy từ nhà Mỵ Châu
Trọng Thủy lập được công đầu
Là do bồng bột Mỵ Châu tin chồng.
10
Con dân Âu Lạc đau không
Nỏ thần không cánh theo chồng Mỵ Châu
Giả buồn ánh mắt bồ câu
Trọng Thủy về Triệu khẩn cầu Vua cha
Tuân theo lệnh của Triệu Đà
Làm nhiều nỏ giống như là Liên Châu*
( * Tên loại Nỏ của Thục Vương )
Tuyên cho binh sỹ bắt đầu
Cùng nhau tiến đánh nước Âu Lạc mình
Nguy cơ mất nước vì tình
Mỵ Châu không dám tấu trình cùng cha
20
Để rồi mọi chuyện xảy ra
Nhà Triệu tiến đánh nước ta trả thù
Triệu Đà nham hiểm thâm u
Con dân Âu lạc diệt trừ tông ty
dùng chiêu “ Dĩ dị công di* ”
( * Người Việt trị Người Việt )
Lấy “Văn Lang trị Văn Lang ”tức thì
Lạc hầu lạc tướng quyền uy
Chúng cho nguyên chức trị vì muôn dân
Triệu Đà diệt cả quan thần
May mà Cao Lỗ làm dân lâu rồi
30
Bởi vì Vua chẳng nghe lời
Tướng quân Cao Lỗ dưới trời Âu* xưa ( *Âu lạc )
Coi lời can gián là thừa
Bãi đi chức tướng mới vừa phong nhau
Tướng quân quỳ lạy rồi tâu
Đúng sai còn đó đời sau tỏ tường
Nhật Nguyệt soi sáng như gương
Thần không hổ thẹn nói đường thẳng ngay
Vua tin thần mới rãi bày
Nhà Triệu muốn cướp nước này Vua ơi
40
Thần xin Vua chuẩn tấu lời
Chớ tin mật ngọt ở nơi Triệu Đà
Vậy mà truyện đã xảy ra ..
Trao trứng cho ác trao nhà cho ma
Vì tình mất nước tan nhà …
3.2 - Hán -Triệu chanh hùng và nước Nam Việt
Nhà Triệu lập trước công nguyên
Hai trăm linh bảy* dưới miền trời nam
( *Năm 207 trước công nguyên )
Một trăm mười một* thì tan
( *Năm 111 trước công nguyên )
Qua năm thế hệ suy tàn từ đây
Nhà Hán thôn tính thẳng tay
50
Âm mưu thâm độc nhổ cây bạo hành
Vua Hán mở tiệc linh đình
An Quốc Thiếu Quý* dẫn binh dụ hàng
( *Tướng quân nhà hán )
Nhà Triệu khi ấy có nàng
Tên là “Cù Thị ”bà hoàng vợ vua
Mượn đêm mượn cớ đi chùa
Tính tình dâm đãng hại Vua hại chồng
Lén lút nàng đã tư thông
An Quốc Thiếu Quý* đức ông bên bà
( *Thiếu Quý tướng nhà hán )
Dụ dỗ Vương Đức* vua nhà
( *Vua nhà triệu )
60
Dâng cho nhà hán tất gia nghiệp này
Lữ Gia* tể tướng ngăn ngay ( *Tể tướng nhà Triệu )
Truyền đi lời hịch thẳng ngay rõ ràng
Rồi cùng văn võ bá quan
Giết xứ giả Hán gian tham vẽ đường
Giết luôn cả đức Ai Vương*
( *Vua đời thứ tư nhà triệu )
Giết nốt Cù Thị* mở đường vua sau ( *Hoàng hậu của vua Minh Vương )
Lữ Gia tể tướng cầm đầu
Suy tôn Kiến Đức* con đầu Minh Vương ( *Vua đời thứ ba nha triệu )
Miếu hiệu là Triệu Dương Vương* ( *Vua đời thứ năm nhà Triệu )
70
Lên ngôi cai trị dễ thường một năm
Tham vọng bành trướng xa xăm
Vua Hán Vũ Đế lại nhằm diệt vong
Quan quân nhà Hán nóng lòng
Sai ngay Dương Mộc* đánh vòng sau lưng ( * Danh tướng nhà hán )
Tiên phong Lộ Bác* vượt rừng
( *DanhTướng nhà hán )
Quân chia năm đạo kín bưng tiến vào
Nam Việt phục sẵn gươm đao
Quan quân hai nước lao vào đánh nhau
Chém nhau máu chảy rơi đầu
80
Con dân hai nước nhuộm mầu tóc tang
Lữ Gia tể tướng không hàng
Cõng vua nhà Triệu băng ngang qua đồng
Chẳng cần biết thoát được không
Quân Hán bắt sống trên đồng chém ngay
Giết Vua Triệu giữa ban ngày
Vua Hán tuyên cáo : Từ đây yên bình
Qua cơn bão lửa rùng mình
Giặc Hán thôn tính Triệu dừng từ đây
Oán hờn lên tận trời mây
190
Chương 4 ; BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT
4.1- CUỘC KHỞI NGHĨA HAI VÀ TRƯNG DÀNH ĐỘC LẬP
Những năm đầu bắc thuộc này
Đắng cay tủi nhục từ nay khởi đầu
Nước việt vốn dĩ nhiều châu
Nay dồn một bộ bổ đầu chín quan
Hòng cai trị được an nhàn
Nhà Hán cắt đặt người nam trị vì
Giao chỉ chúng gọi man di
Bổ quan thái thú trị vì trông coi
Lạc hầu lạc tướng tuyên đòi
Giao cho cai quản nhỏ nhoi một vùng
10
Giữ nguyên chế hệ nối dòng
Cha truyền con nối như trong tuyên này
Thái thú Giao chỉ ở đây
Tô Định mặt sắt người này hiểm nguy
Giao chỉ dưới ách trị vì
Phu phen thuế khóa thường thì nặng hơn
Lòng dân căm phẫn tủi hờn
Bạc vàng châu báu quý hơn mạng người
Bắt dân xuống đáy biển khơi
Mò trai lấy ngọc đồi mồi lấy mai
20
Bắt dân bỏ ruộng lâu dài
Gây ra đói khổ châu ngoài quận trong
Còn nhiều những truyện đau lòng
Khắp nơi đều thấy cướp trong cướp ngoài
Giao chỉ quằn quại hỡi ai
Quan quân hà hiếp cắt tai dân lành
Từ đây nhem nhóm đấu tranh
Dựng cờ khởi nghĩa quyết dành tự do
Đòi lại áo ấm cơm no
Cho xuân hoa nở phúc to mọi miền
30
Trời sai hai vị tiên hiền
Hai nàng nữ tướng quê miền châu phong ( bạch hạc ,việt Trì , phúthọ )
Trưng Trắc chị cả đầu lòng
Trưng Nhị em gái song song nhịp cầu
Hai chị em quyết cùng nhau
Dựng cờ tụ nghĩa đứng đầu ba quân
Dưới trời thu phục lòng dân
Vì nhau theo ngọn cờ thần rung rinh
Đóng đô tại đất Mê linh ( Hạ Lôi ,Yên lãng vĩnh phúc )
Dậy dân cày cấy luyện binh bên mình
40
Tăng thêm sức mạnh lôi đình
Mê linh đồng ý kết tình Chu diên ( hạ mỗ đan phượng nay )
Thi Sách dũng mãnh hiếu hiền
Kết duyên Trưng Trắc tơ duyên vẹn tình
Tình lồng trăng sáng lung linh
Sức mạnh thêm lớn dân mình từ đây
Trong niềm hoan hỷ ngất ngây
Vợ chồng lưu luyến chia tay bao điều
Lòng dù vẫn mãi còn yêu
Trưng Vương lên kiệu hồi triều Mê linh
50
Uy nghi bệ vệ phong tình
Thi Sách ở lại với đình Chu diên
Mỗi người cai trị một miền
Uyên ương tan tác gác duyên diệt thù
Ngỡ rằng thái thú bị mù
Tưởng rằng Tô Định lại ngu hơn mình
Nhưng không Tô Định rất tinh
Đánh hơi thấy chuyện triều đình Mê linh
Kết duyên như bóng với hình
Quan quân thái thú tới rình xem sao
60
Thực hư ,hư thực thế nào
Để còn triệt phá phong trào nghĩa binh
Sau khi đã rõ sự tình
Tô Định giật mình hoảng hốt kêu to
Trưng Vương Thi Sách nhiều trò
Bắt tay hợp sức nguy to mất rồi
Nhất định ta phải diệt thôi
Không tha một mống cho đời sau ghê
Dẫn quân gươm giáo chỉnh tề
Bao vây quây kín bốn bề Chu diên
70
Bắt được Thi Sách đầu tiên
Giết ngay tại chỗ quăng liền xác trôi
Còn vài mống sót lại thôi
Chúng tha tội chết cho rồi đuổi đi
Đắc thắng Tô Định cười khì
Tìm nhà Thi Sách chu di họ hàng
Dân lành đau khổ hoang mang
Hợp nhau tụ lại chạy sang vua bà
Tâu rõ những chuyện ngày qua
Quan thái thú với chồng bà đánh nhau
80
Thi Sách mất xác còn đâu
Giết hết tướng sỹ bêu đầu làm gương
Chẳng hề rủ chút lòng thương
Quăng đi vứt xác tứ phương gầm trời
Hay tin dữ đến trong đời
Trưng Trắc đau đớn dụng dời tim đau
Quyết lòng rửa mối thù sau
Hợp binh tướng lại rồi mau lệnh rằng
Thái thú Tô Định hung hăng
Gây bao đau đớn vĩnh hằng lòng dân
90
Giờ đây trước ngọn cờ thần
Trưng Vương ta lệnh tiến quân diệt thù
Chiêng trống đánh thúc họa hù
Quân tướng sỹ tốt thổi tù kêu vang
Tay cầm kiên kiếm tiến sang
Trưng Vương oai vệ đàng hoàng voi cao
Quân đi như bão ầm ào
Khí thế hừng hực xông vào tòa đô ( nơi ở thái thú )
Sức quân dồn lén vỡ xô
Chỉ trong chốc lát tòa đô tan tành
100
Từ nay trên đất Mê linh
Con dân có phút yên bình vui tươi
Trưng Vương thắng trận dưới trời
Cho quân nghỉ sức vui chơi dài ngày
Tô Định cao chạy xa bay Kinh hồn bạt vía chẳng quay lại nhìn
Lòng dân đã vững niềm tin
Thừa thắng tiến đánh lấy miền Luy lâu ( thành phía bắc hà nội )
Vui mừng trước chiến công đầu
Lòng dân Nước Việt rực mầu cờ hoa
10
Đêm về quên ngủ hát ca
Dung dăng dung dẻ nhà nhà cùng vui
Bước chân tìm nhịp trống trời
Dập dìu ánh mắt thả lời ngất ngây
Trong hương trong tửu trong say
Khăn bay tìm gió chim bay tìm trời
Tay tìm đùa rỡn với đời
Miệng tìm cởi hết những lời tim nhau
Cho vơi đi những nỗi đau
Trong xuân hoa rỡn mắt nhau vui đùa
20
Bây giờ trên đất ngày xưa
Vua Hùng dựng nước dựng cờ nước nam
Thanh bình trong những trái tim
Thanh bình trong những cánh chim đi về
Thanh bình trên những miền quê
Thanh bình rửa được lời thề tim son
Thanh bình sông núi giang san
Thanh bình cho cả nhưng cơn mưa chiều
Thanh bình trong những tình yêu
Thanh bình cho cả những điều thẳng ngay
30
Quân thù sạch bóng trời mây
Trưng Trắc ,Trưng Nhị dựng xây nước nhà
Vững tin ở trái tim bà
Cửu chân, Hợp phố cũng ra nhập vào
Lòng dân rộn rã xôn sao
Tôn hai nữ tướng ngôi cao nhất ngồi
Trưng Trắc tuyên cáo dưới trời
Cắt đặt chức tước những người có công
Cùng nhau cai quản non sông
Dậy dân cày cấy giữ trông nước nhà
40
Tuyên ban chính sách mới ra
Giảm thu thuế khóa bổng tha tội tù
Mong cho thiên hạ ấm no
Cho dân bách Việt tự do yên bình
Đức vua bà sáng lung linh
Tấm gương Nước Việt dân mình cần soi
Để lòng mãi được sáng ngời
Cho con cho cháu nhiều đời nhớ ơn
Vững vàng son sắt đá mòn
Bách chiến bách thắng trước cơn bão thù
50
Ngàn năm trong cõi thiên thu
Quân thù vẫn bại mối thù xưa nay
Ngậm hờn bại trận đắng cay
Bắc thuộc lần một từ đây không còn
Vua bà ơi !. tấm lòng son …
4.2- THỜI KỲ ĐỘC LẬP CỦA HAI BÀ TRƯNG
Trải bao chớp bể mưa nguồn
Đến năm tân sửu truyện buồn tai ương (năm 41 )
Hay tin Trưng Trắc xưng Vương
Nhà Hán mượn cớ dọn đường quân sang
Dã tâm xâm chiếm nước nam
60
Sai ngay Mã Viện đi làm tướng quân ( Tướng nhà Hán )
Hòng mong đè bẹp lòng dân
Cử thêm Đoàn Chí dẫn quân đi cùng ( PhóTướng nhà Hán )
Lính hai mươi vạn binh hùng
Chiến thuyền lương thảo bập bùng kéo sang
Không nhà không cửa không làng
Đóng quân đồn trú bãi hoang đầm lầy
Lãng Bạc địch đóng tại đây ( Vùng đông triều quảng ninh nay )
Gươm đao ,giáo mác đợi ngày tấn công
Địch nhiều kế hiểm mưu thâm
70
Dã tâm ấp ủ âm thầm bủa vây
Trưng Trắc chẳng chút lung lay
Tung quân ra đánh trước ngay phủ đầu
Mong địch sợ phảỉ cút mau
Hai bên giao chiến đánh nhau sập trời
Trận này bất lợi ai ơi
Quân ta một vạn chết tươi giữa đồng
Còn gì đau đớn hơn không
Trưng Vương nổi lệnh trống đồng thu quân
Trước là ổn định lòng dân
80
Sau là nghỉ trận đón xuân mới về
Tập trung quân tại Cấm khê ( vùng Thạch thất , quốc oai hà tây nay )
Mã Viện vẫn kéo quân về đuổi theo
Hai bên tiếp tục đánh nhau
Gây cho bao nỗi đớn đau dân nghèo
Dòng sông Hát nước trong veo
Nay đà nhuộm đỏ nước lèo máu quân
chết gần bốn vạn quân dân
Trưng Trắc vẫn quyết xả thân đánh thù
Tên bay giết giặc vù vù
90
Gươm đao giáo mác chém thù thẳng tay
Quân ta sức yếu trận này
Thua to phải chịu đắng cay căm hờn
Có còn đau đớn nào hơn
Trưng Trắc ,Trưng Nhị ngậm hờn nhảy sông
Đem theo hai trái tim hồng
Vào năm quý mão theo chồng vinh quang (ngày 06 tháng 02 năm 43 )
Máu đào thắm đỏ hát giang
Cùng toàn văn võ bá quan triều đình
Trong lòng dân đất Việt mình
Vua bà mãi sáng lung linh ngàn đời
200
Chương 5: BẮC THUỘC LẦN HAI
5.1- THỜI KỲ NHÀ ĐÔNG HÁN
Bắc thuộc lần một qua mau
Lần hai đã đến bắt đầu từ đây
Gọi nhà Đông Hán triều này
Dựng cây đồng trụ lên ngay giữa đường
( Cây cột làm bằng đồng chôn trên đất mê linh, Hà nội ngày nay)
Phân là danh giới hai phương
Phương nam phương bắc coi thường dân ta
Bày trò quỷ kế tà ma
Doạ rằng cột đổ người ta không còn
Lòng dân đại Việt ngoan cường
Chẳng hề sợ hãi tai ương trò này
10
Người người cầm đất trong tay
Bỏ chân đồng trụ trò này coi xong.
Phong tục luật lệ thường dùng
Cha truyền con nối Vua Hùng ngàn xưa
Chúng coi luật cũ là thừa
Bắt theo luật mới chúng đưa triều này
Quan làm không được thì thay
Không theo chế độ xưa nay vẫn dùng
Gây ra mọi truyện rối tung
Con cháu Vua Hùng đã chẳng gặp may
20
Tiếng Việt chúng cũng bắt thay
Nói theo Tiếng Hán xưa nay không dùng
Quy thuận thiên tử iêng hùng
Tuân theo một chế độ chung thiên triều
Hàng năm sưu thuế cống nhiều
Đồi mồi trai ngọc bao nhiêu cho vừa
Ngàn vàng, vải lụa gấm tơ
Thái thú Sỹ Nhiếp vẫn chưa bằng lòng
Bắt hết thợ giỏi thủ công
Thợ xây thợ mộc đàn ông có tài
30
Không chừa sót bỏ một ai
Đem sang Bắc quốc xây đài Nam kinh
Kinh đô Kiến nghiệp Nam ninh
Bòn sương rút tủy dân mình nước nam
Khi đó ở quận Nhật nam
Có quan Trương Trọng siêng làm chữ hay ( quan nhỏ trong phủ thái thú )
Thái thú Sỹ Nhiếp châu này
Cử sang bắc quốc tâu bày với vua
Việc này thái thú giao cho
Mậu dần cất bước tự lo tự làm ( năm 78 )
40
Lạc dương nay gọi Hà nam ( kinh đô của nhà hán xưa ) ( Tính lỵ Hà nam Trung quốc nay )
Vua Hán với lũ quan tham của mình
Đặt làm Đô của triều đình
Đêm ngày tụ tập tấu trình tại đây
Bấy giờ vua Hán mới hay
Được tin Trương Trọng tâu bày thay quan
Thái thú Sỹ Nhiếp - Nhật nam ( Quận Nhật Nam nhà Đông hán )
Tuyên cho vào gặp long nhan yết trình
Vừa nhìn thấy bóng thấy hình
Trương Trọng sấu xí thân mình yếu đau
50
Người không lòe loẹt áo hầu
Mặt mày bình dị chắc tâu cũng thường
Vua Hán ra vẻ Quân Vương
Nói khinh Trương Trọng dân hường man di
Này!… viên tiểu lại bé ti
Ngươi quê ở quận man di châu nào?
Trương Trọng khó chịu làm sao
Nhưng bình tĩnh đáp thần vào tâu đây
Thay mặt thái thú châu này
Không phải tiểu lại hay bày tôi đâu
60
Bệ Hạ có muốn đọ đầu
Hay đo xương thịt cùng nhau với thần
Vua Hán sắc mặt tím bầm
Không làm gì nổi mà câm họng vào
Bất ngờ gặp đối thủ cao
Tính kế rửa nhục làm sao bây giờ
Tấn công Trương Trọng bất ngờ
Ra ngay vế đối bằng thơ nói rằng
“Phương nam leo lét sao băng
Làm nhà lưng dựa phía trăng nhìn trời
Nhật Nam là hướng ngàn đời
70
nhà dân Nam việt tất thời nhìn trông”
Tự cho Nước Hán ngôi cao
Chẳng ngờ Trương Trọng quay vào đáp ngay
Thần xin đáp lại thế này
Xin vua xá tội nếu cay đắng lòng
Bởi là từ thuở Vua Hùng
Muôn dân Bách Việt đã chung một nhà
Lấy vợ thì phải hiền hòa
80
Còn nếu làm nhà thì chọn hướng nam
đó là tín ngưỡng xưa làm
chẳng ai trông hướng Nhật nam dựng nhà
đó là tục nước nam ta
ngàn đời vẫn mát mượt mà thưa vua
Bệ hạ nghe đã rõ chưa
Hán Vương gặp kẻ không vừa giỏi giang
khâm phục trí tuệ người nam
bèn cho bổ dụng làm quan Hán triều
không hề phải đắn đo nhiều
90
phong cho chức tước tri châu Kim Thành
Trời không yên Đất chẳng lành
nhà Đông Hán mất chia thành ba vương ( chia thành 3 quốcgia )
Bắc Ngụy chiếm cứ một phương
Tây Thục cũng chẳng theo phường nhà Ngô
Đông Ngô phận quả canh cô
Giao châu ta thuộc Đông Ngô trị vì
từ nay lại khổ ai bi
Sỹ Nhiếp vẫn được trị vì Giao châu
ác độc chẳng sống được lâu
100
đến năm bính ngọ theo hầu tổ tiên ( năm 226 )
Giao châu loạn lạc rối ren
dưới ách ngô chủ Tôn Quyền - Quảng châu
Sỹ Huy là đứa con đầu
con quan Sỹ Nhiếp Giao châu bấy giờ
tự xưng thái thú treo cờ
coi mình là kẻ trụ bờ Giao châu
trị vì chẳng được bao lâu
Tôn Quyền gét bỏ chia châu hai miền
sai ngay Lữ Đại quan viên
10
sang làm thứ sử tại miền Quảng châu
những mong gốc rễ cắm sâu
Đài Lương thứ sử Giao châu mới về
lo toan cai trị mọi bề
phế con Sỹ Nhiếp đuổi về từ đây
Tôn Quyền lo sự chẳng hay
sai Đài Lương chém ngay đầu Sỹ Huy
Đài Lương đành dẫn quân đi
diệt quan thái thú Sỹ Huy hiện thời
quân binh chưa kịp tới nơi
20
mới đến Hợp phố nghỉ ngơi chờ ngày
Sỹ Huy thám thính đã hay
đem quân đánh đạo quân này Đài Lương
hai bên giao chiến kiên cường
đầu rơi máu chảy tan thương đất này
Tôn Quyền khi ấy cử ngay
Lữ Đại thái thú cứu bầy giải nguy
dụ hàng thái thú Sỹ Huy
hứa cho được sống - hàng thì phong quan
Sỹ Huy ngu dại nhát gan
30
rủ thêm nhiều tướng ra hàng từ đây
Lữ Đại tàn độc lắm thay
giết kẻ chạy lại thẳng tay chẳng trờn
Tôn Quyền hợp nhất giang sơn
5.2- CUỘC KHỞI NGHĨA TRIỆU THỊ TRINH ( năm 248 )
Đông Ngô bóc lột dân hiền
khiến cho cát cứ mọi miền nổi lên
Bấy giờ ở Núi Quan Yên
Cửu chân Thanh hóa nơi miền dẻo cao
Nhà họ Triệu có công lao
Triệu Quốc Đạt chức quan cao trong vùng
Có người em gái anh hùng
Trinh Nương nổi tiếng cả vùng Cửu chân
Cùng anh tạo dựng nghĩa quân
Lập căn cứ ở lòng dân Phú điền
Hậu lộc Thanh hóa Quan yên
Là một thung lũng hai triền đá vôi
Tứ bề thăm thẳm núi ngồi
lại gần cửa biển từ nơi bắc vào
Khắp nơi truyền miệng câu rao
Trong lòng dân chúng xôn xao cả vùng
50
Có bà Triệu tướng oai hùng
Vâng mệnh trời đã xuống vùng quê ta
Trị được voi giữ một ngà
Dựng cờ mở cõi là bà Trinh Nương
Lệnh truyền sau trước bốn phương
Theo gót Triệu tướng bà Vương diệt thù
Heo may trong tiết mùa thu
Vào năm Bính Ngọ gió du hoa cười
(năm 225 )
Mồng hai đầu tháng tối trời
Trăng sao đi vắng đêm thời lặng im
60
Mẹ cha sinh hạ trái tim
Lớn khôn chẳng chịu ngồi im ngậm hờn
Cha mẹ thương sót van lơn
Anh trai Quốc Đạt nổi cơn can rằng
Xin em ở lại yên lòng
Để anh đi dẹp thù trong giặc ngoài
Trinh Nương chẳng chút đoái hoài
Mà còn nói lớn"gái tài đừng lo"
Em muốn cưỡi gió thật to
Đạp cơn sóng dữ gieo hò bão giông
70
Chém cá kình lớn biển đông
Quyết tâm dành lại núi sông Vua Hùng
Không làm tỳ thiếp còng lưng
Cúi đầu nô lệ lòng dưng tủi hờn
Ước mơ gây dựng giang sơn
Cởi ách nô lệ đền ơn nước nhà
Trái tim em mách vậy mà
Cậy anh thu phục dân ta đồng lòng
Châu ngoài cho đến quận trong
Giao châu Hợp phố Cửu chân đợi chờ
80
Lòng dân thấm đẫm bài thơ
“ Du con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng ”* “*Ca dao”
Trinh Nương mặc áo giáp đồng
Dạy quân luyện võ dưới sông trăng vàng
Gươm đao cung kiếm sẵn sàng
Chờ ngày nổi dậy dân làng vững tin
Đêm trăng năm ấy mậu thìn ( năm 248 )
Trinh Nương phát lệnh truyền tin đánh vào
Trước tiên tiến đánh Châu giao
Sau là tiến đánh chiếm vào Cửu chân
Không gì cản được lòng dân
90
Dưới cờ của Triệu Thị Trinh ào ào
Nghĩa quân chiếm được Châu giao
Bắt lũ cai trị đưa vào chém ngay
Viên quan Thứ sử châu này
Ba chân bốn cẳng xa bay Bắc triều
Vía hồn bay lạc phách siêu
Tâu Ngô vương biết những điều thấy, nghe
Châu giao trấn động bốn bề
Ba quân tướng sỹ tựu tề Trinh Nương
Quân Ngô bạt vía kinh hồn
Thần dùng kế hiểm mới chuồn thoát đây
200
Cúi xin dâng biểu tâu bày
Trong lòng quân sỹ châu này câu ca
Rút gươm giết hổ rễ mà
Vung gươm đối diện vua bà khó ghê
Ngô Vương chợt tỉnh cơn mê
Giật mình hốt hoảng nghe về Cửu chân
Phái ngay Lục Dận tướng quân
Âm mưu quỷ quyệt đích thân tiến vào
Phong làm thứ sử Châu giao
Tám ngàn tinh nhuệ ào ào giết dân
10
Vũ lực đàn áp nhân thần
Mua chuộc thủ lĩnh bỏ quân ra hàng
Hứa cho tiền bạc giàu sang
Phong cho chức tước quan lang châu này
Loan tin dân chúng nghe hay
Lời trên là luật mới này vua ban
Một số thủ lĩnh nhát gan
Mắc mưu kế địch ra hàng quân Ngô
Trinh Nương chẳng sợ sóng to
Vững tay chèo lái con đò ra khơi
20
Kiên trung bất khuất dưới trời
Xả thân giết giặc tả tơi bụi mù
Năm dòng chống trọi diệt thù
Bao đêm trăng sáng mùa thu Núi tùng
Trong quân có kẻ gian hùng
Ngấm ngầm phản bội phản thùng Trinh Nương
Lũ lang sói rúc gậm giường
Tạo phản hại nước cùng đường đau thương
Trinh Nương đánh trận ngoan cường
Hy sinh ngay tại quê hương Núi tùng
30
Trinh Nương trí khí anh hùng
Thiên thu tên tuổi đi cùng núi sông
Muôn dân ghi tạc chiến công
Xây đền thờ ở núi Tùng Cửu chân
Ngàn năm mãi nở sắc xuân
5.3 - NƯỚC VẠN XUÂN ĐỘC LẬP - NHÀ TIỀN LÝ ( Năm 544-602 )
Dẹp xong khởi nghĩa Trinh Nương
Bây giờ chế độ Ngô Vương khởi đầu
Úât lâm Nam hải xa đâu
Trượng Ngô hợp lại cùng nhau một vùng
Châu trị đặt tại Phiên ngung
40
Tên xưa vẫn gọi quảng châu thường dùng
Hợp nhất một chế độ chung
Bổ quan thứ sử nằm vùng trông coi
Cửu chân ,Giao chỉ nhỏ nhoi
Nhật nam ,Hợp phố nhập đòi ưu tiên
Châu trị đặt tại Long Biên ( Châu diên của nhà triệu trươc kia )
Trên đất Nam việt Châu diên Triệu Đà
Ngày trước chúng đã chia ra
Con dân một quận chia là hai châu
Gọi là : Giao chỉ - Quảng châu
50
Gây bao tai họa từ đâu bay về
Nhà Tấn đánh bại Ngụy, Tề , Ngô vương
Vào năm Ất dậu mở đường
( năm 265 )
Phong quan phong tước phong vương họ hàng
Chức to đến chức quan lang
Ngày đêm xét lét dân làng không ngơi
Chia nhau cát cứ vùng trời
Thân vương quốc thích rối bời đánh nhau
Anh em gieo giắc nỗi đau
Chân tay cốt nhục giết nhau tương tàn
Vì tiền vì bạc chức quan
Lòng dân căm phẫn gian tham ngút trời
60
Thời cơ thuận lợi tới nơi
Nước Tần nước Triệu được thời vùng lên
Hợp quân cùng với nước Yên
Nước Lương nước Hạ xông lên đánh vào
Nước Hán tiến đánh vùng cao
Chiếm cứ phía bắc lối vào Trường giang ( vùng sông trường giang Trung quốc )
Nhà Tấn chỉ giữ phía nam
Bỏ đô Kiến nghiệp xưa làm trị dân
Mùa thu năm ấy Canh Thân
( năm 420 )
Lư Du một kẻ hạ thần đoạt ngôi
70
Ngôi vua Đông Tấn mất rồi
Lập lên nhà Tống giữ trời phương nam
Dành giật cướp đất vì tham
Từ đây Bắc quốc chia làm hai vương ( chia làm hai quốc gia bắc triều và nam triều )
Bắc triều nhà Ngụy mở đường
Nhà Chu cùng lũ thân vương Nhà Tề
Nam triều nhà Tống đề huề
Nhà Lương với lũ ngô ngê nhà Trần
Thay nhau cai trị muôn dân
Kể từ trước tết mùa xuân Kỷ mùi ( năm 479 )
Nhà Tống lại bị cướp ngôi
80
Lọt vào tay bọn vua tôi nhà tề
Nhà Tề chính sự nhiêu khê
Hai hai năm lại thuộc về nhà Lương (22 năm )
Nhà Lương chẳng trút khiêm nhường
Đoạt ngôi thoán vị quân vương nhà Tề
Đúng là nhiều truyện nhiêu khê
Nước nam ta lại thuộc về Giao châu
Tiêu Tư ,thứ sử cầm đầu
Ban nhiều chế độ đè đầu cưỡi dân
Gây bao cực khổ trăm lần
90
Vơ vét của cải bắt dân cống triều
làng quê sơ xác tiêu điều
Vẫn không đủ nộp cống nhiều vua quan
Dân đau lòng dạ bất an
Nhưng đâu ai giám thở than so bì
Những mong tìm được hướng đi
Thấy cờ khởi nghĩa tức thì theo ngay
Lý Bôn hào trưởng huyện này
Tục gọi Lý Bí quê ngay Thái Bình
Tổ tiên Lý Bí anh minh
300
Thời Tây Hán đến Việt mình canh nông
Bẩy đời thế hệ nối dòng
Cùng dân Đại Việt một lòng thương nhau
Có chàng Lý Toản con cầu
Là trưởng bộ lạc đứng đầu con dân
Ở vùng Châu Ái ,Cửu chân
Rừng xanh núi đỏ mùa xuân mãi về
Ái châu có một họ Lê
Sinh ra nàng Oánh giỏi nghề ,đảm đang
Kết duyên Lý Toản giữa làng
10
Trước bao con mắt họ hàng mừng vui
Mười hai , tháng chín quý mùi
(ngày 12/9 năm 503 )
Hạ sinh Lý Bí do trời khiến sui
Ấu thơ tuổi vẫn bé thôi
Mà tư chất đã như người lớn khôn
Năm tuổi cha mất không còn
Lên bảy mẹ cũng theo luôn cha rồi
Vậy là Lý Bí mồ côi
Buồn thương số phận nổi trôi cuộc đời
Chú họ đã bế về nuôi
20
Ngày cho Lý Bí dong chơi đường làng
Bỗng gặp Pháp tổ* đi ngang
(* pháp sư trụ trì chùa Linh Bảo )
Thấy mặt Lý Bí đàng hoàng khôi ngô
Bèn xin Lý Bí về chùa
Ngôi chùa Linh Bảo mới vừa dựng xong
Dậy cho cái chữ vào lòng
Dậy ăn dậy nói dậy công dậy đời
Mười năm đèn sách đạo trời
Trí thành trượng nghĩa người người khó so
Tài văn tài võ chẳng lo
30
Anh em bạn hữu tôn phò đầu quân
Thời trẻ Lý Bí làm quan
Chức quan giám sát an nhàn khá lâu
Giám quân ở quận Đức châu
Vùng đất Hà Tĩnh nhuốm mầu bất an
Bất đồng nội bộ các quan
Bởi vậy Lý Bí từ quan về nhà
Chiêu binh mãi mã dân ta
Đứng lên dành lại quận nhà quê hương
Gây bao bất ổn nhà Lương
40
Lý Bí lãnh đạo dân thường Giao châu
Chiến tranh giữ nước đến mau
Tháng giêng nhâm tuất bắt đầu tấn công ( năm 542 )
Căm hờn lớn mạnh bão giông
Tiêu Tư khiếp sợ mà không đối đầu
Mang nhiều vàng bạc kêu cầu
Hối lộ Lý Bí để đầu khỏi rơi
Bảo toàn được tính mạng rồi
Ba chân bốn cẳng chạy rời Giao châu
Không đầy ba tháng trời sau
50
Nghĩa quân lập chiến công đầu thần tiên
Chiếm được châu trị Long biên
Cùng nhiều quận huyện vùng ven thành này
Vua Lương khi ấy mới hay
Lập tức hạ lệnh trong ngày phản công
Chẳng cần biết đánh nổi không
Chỉ nghe bại trận mà lòng phát điên
Xua quân chiếm lại Long biên
Cướp lại đất mất vùng ven châu này
Đội quân tinh nhuệ trong tay
Nghĩa quân Lý Bí đợi ngày vinh quang
Vua Lương tự đắc chủ quan
60
Xuất binh hừng hực tràn sang trả thù
Bấy giờ là tiết mùa thu
Cuối năm nhâm tuất Ta - Thù đánh nhau
( năm 542 )
Nghĩa quân Lý Bí nhiệm mầu
Đánh tan tác đạo quân đầu nhà Lương
Khiến cho chúng phải cùng đường
Xin hàng rồi chạy về Lương chịu tù
Hân hoan thắng lợi mùa thu
Quân dân Lý Bí đuổi thù nhà Lương
Thanh bình đến mọi nẻo đường
70
Ấm no về lại quê hương dân cày
Nơi nơi nô lức xum vầy
Miền quê vui vẻ tràn đầy lòng dân
Thế rồi bỗng đến mùa xuân
Đầu năm quý dậu trăng rằm ánh trăng (năm 543 )
Vua Lương hậm hực tuyên rằng
Dẫn quân rửa nhục san bằng nghĩa quân
Lý Bí trấn tĩnh lòng dân
Đêm ngày ra sức luyện quân đợi thù
Vua Lương đã rốt lại ngu
80
Quân binh sức yếu phục thù làm sao
Dùng dằng chưa dám tiến vào
Tướng giặc đều sợ đánh vào sẽ thua
Đường xa mệt mỏi nắng mưa
Đến châu Hợp phố mới vừa nghỉ ngơi
Lý Bí thám thính đánh hơi
Đem quân đánh úp tơi bời quân Lương
Dồn cho chúng phải cùng đường
Không còn lối thoát về Lương nữa rồi
Giặc Lương chết tám phần mười
90
Tướng chết gần hết thây phơi đầy đường
Kẻ nào sống sót về Lương
Vua bắt tự tử không đường thoái lui
Tháng hai , Giáp tý xuân vui…!
( năm 544 )
Lý Bôn thắng trận vang trời Giao châu
Mở nền độc lập lần đầu
Mùa xuân đào nở thắm mầu sắc hoa
Ấm no cho nước non nhà
Lòng dân nở thắm rừng hoa cuộc đời
Lý Bí tuyên cáo dưới trời
400
Xưng vương đặt nước tên thời Vạn Xuân
Thỏa lòng mong đợi muôn dân
Lý Bí đã dựng cờ thần trời nam
Việc đầu Lý Bí đã làm
Đặt Kinh đô của Nước nam thanh bình
b
Bên dòng Tô Lịch lung linh
Thắm hồng trang sử triều đình ngàn thu
400
Quan võ phong tướng - Phạm Tu
Quan văn trong trẻo mùa thu - Tinh Thiều
Thái phó - Triệu Túc vua yêu
Tướng trẻ - Quang Phục không kiêu có tài
Lý Bí mong đợi tương lai…
Vua tin trọng dụng ngày mai trưởng thành
Phò vua trị nước an lành
Hoa cười rỡn nắng đón nhành ban mai
Ngày lành Lý Bí tuyên sai
Dựng ngôi chùa lớn vùng ngoài Yên hoa
Tên chùa Khai Quốc nước nhà
Kinh đô phật học dân ta xum vầy
10
Xây chùa trên đảo nổi này
Nay dân vẫn gọi đào này Kim Ngư
5.4 – CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG GIẶC NHÀ LƯƠNG CỦA LÝ BÍ VÀ NƯỚC VẠN XUÂN NON TRẺ .
Tiền Lý khởi nghiệp từ đây
Trăm dân đoàn kết chung tay xây đời
Vạn Xuân độc lập dưới trời
Vua Lý Nam Đế cả đời thương dân
Đồng lòng tướng sỹ ba quân
Chăm lo cuộc sống cho xuân mãi về
Ấm no trên mọi miền quê
Lúa reo rộn dã say mê lòng người
Đầu năm ất sửu rối bời
( năm 545 )
Vua Lương đàn áp rã rời trăm hoa
Triệt dân nổi dậy nước nhà
20
Nông dân bắc quốc sót xa điêu tàn
Vua Lương vơ vét bạc vàng
Ngọc ngà châu báu, sẵn sàng chiến tranh
Âm mưu xâm lược Vạn Xuân
Nước còn non trẻ ,Quân dân an lành
Vua lương phát động chiến tranh
Mưu toan chiếm lại đất lành giao châu
Cử quan thứ sử đứng đầu
Tên là Dương Phiếu cầm đầu tiến lên
Phó tướng là : Trần Bá Tiên
30
Cùng nhau chia cánh ,hai miền tấn công
Thủy - Bộ, hai hướng hợp cùng
Trống chiêng ,cờ quạt hùng hùng kéo ra
Tiến đánh nước Vạn xuân ta
Chiếm cứ vùng đất nước ta “Lục đầu”
Vua Lý chặn đánh trước sau
Nhưng quân ta yếu phải mau lui về
Đóng quân trên những sườn đê
Cửa sông tô lịch, miền quê giữ thành
Bảo toàn lực lượng an lành
40
Nghỉ ngơi giữ sức chiến tranh lâu dài
Lo cho trận chiến tương lai
Vua lý sai đắp lũy dài thành cao
Cọc tre , cọc gỗ đóng vào
Ngăn lòng giặc đánh vào lòng thành ta
Nhưng do thành mới đắp ra
Đất chưa khô cứ vỡ ra rã rời
Quân Lương bắt thóp được thời
Tấn công phá lũy, ta thời mới xây
Hai bên giao chiến mấy ngày
50
Tòa thành sụp đổ dưới tay quân thù
Thế là : lãoTướng Phạm Tu
Hy sinh trong trận đánh thù tại đây
Vua Lý Nam Đế nhanh tay
Thu quân ,tướng sỹ ngược ngay Sông hồng
Đóng quân đồn trú giữa đồng
Tòa thành châu trị xưa vùng “Gia Ninh”
Trên vùng Bạc Hạc đất mình
Việt Trì , Phú thọ lung linh sắc cờ
Luyện binh chờ đợi thời cơ
60
Khi quân giặc đến bất ngờ phản công
Quân Lương đang thế thượng phong
Đuổi quân Vua Lý ngược sông tới cùng
Hai bên quyết chiến vẫy vùng
Quân ta phải rút về vùng Châu phong
Kinh đô xưa của Vua Hùng
Nén tâm ngậm mối thù trong cõi lòng
Tưởng rằng lánh lạn là xong
Nhưng quân giặc vẫn đuổi vòng phía sau
Gầm trời vùng đất Phong châu
70
Quân binh : Ta - Địch rơi đầu tan thương
Dồn nhau ép đến cùng đường
Lý Nam Đế - yếu phải nhường, rút lui
Vào động, Khuất lão nghỉ ngơi
Nhân dân ủng hộ chờ thời đánh nhau
Chỉ trong mấy tháng chưa lâu
Quân ta mười vạn đối đầu giặc lương
Mặt hồ, Điển Triệt, thông thương
Với Sông Lô , chảy theo đường Bắc - Nam
Bốn bờ đá núi lam nham
80
Chỉ duy hướng bắc Sông làm đường thôi
Thuyền quân kín mặt hồ rồi
Trại binh đóng kín núi, đồi -Tứ Yên
Ở vùng Lập Thạch, Bình Xuyên
Quê hương Vĩnh phúc vua hiền bà Trưng
Bấy giờ từ phía Gia ninh
Quân lương vội vã dẫn binh đánh vào
Vua lý đợi sẵn trên cao
Tấn công đánh địch tiến vào dòng sông
Địch thua đóng trại giữa đồng
90
Quân tướng mỏi mệt nhưng không mất đà
Bá Tiên ,tên tướng cáo già
Đêm mưa ,gió lớn đánh ta bất ngờ
Quân ta khinh địch thờ ơ
Bị địch đánh úp bấy giờ phải lui
Vào động Khuất lão nghỉ ngơi
Động này xưa đã có thời vào đây
Vua lý kế trận tuyệt hay
Chia quân hai hướng chờ ngày phản công
Một cánh cắt hướng băng đồng
500
Quân binh ba vạn,vượt sông tiến vào
Chiếm vùng Thanh Hóa núi cao
Cử “ Lý Phật Tử ”Theo vào trông coi
Cùng anh vua lý sáng ngời
Là Lý Thiên Bảo hiện thời tướng quân
Cốt là yên được lòng dân
Quê hương đất nước Vạn Xuân yên bình
Ở lại cùng một cánh quân
Vua lý đau yếu lòng dân rối bời
Một ngày trời đẹp nắng tươi
10
Vua lý tuyên gọi một người tin yêu
Trao binh quyền lại giữa triều
Cho Triệu Quang Phục vua yêu nhất đời
Quang Phục nhậm chức thay người
Lãnh đạo kháng chiến chống trời nhà Lương
Đất nước có kỷ có cương
Quang phục vâng mệnh đẫn đường thay vua
Thế rồi bỗng một ngày mưa
Toàn dân đau đớn biết vua băng hà
Ngày hai mươi của tháng ba
20
Mùa hoa gạo nở, năm ta Mậu thìn
( năm 548 )
Muôn dân mãi vững niềm tin
Ngàn năm sau vẫn mãi in trong lòng
Góp tiền ,góp bạc, góp công
Xây đền , mở phủ ,trong lòng muôn dân
Mấy trăm đền ở xa gần
Cháu con Lý bí cùng dân thờ người .
30
5.5- TRIỆU VIỆT VƯƠNG ( Quang phục 549-571 )
Được Lý nam Đế trao quyền
Tướng Triệu Quang Phục , quê miền Chu diên
Võ tài ,trí dũng ,ngoan kiên
Một ngày trời đẹp tướng hiền xưng vương
Hiệu đặt là - Triệu Việt Vương
Cái tên : Dạ Trạch dân thường đặt cho
Ở căn cứ bãi màn trò
Vạn quân sỹ tướng reo hò ngày đêm
Đóng quân đồn trú tại miền
Đầm lầy Dạ trạch, Hưng yên , Màn Trò
40
Rậm rì, sú vẹt ,cây mò
Bốn bề lau sậy, mù u um tùm
Ở giữa đất nổi lùm lùm
Nhìn như những tấm da hùm căng phơi
Có đường độc đạo vào thôi
Chỉ thuyền độc mộc mới bơi được vào
Khi bơi tay phải chống sào
Đẩy thuyền lướt nhẹ rẽ vào cỏ lau
Khi thuyền vào đến vùng sâu
Theo con lạch nhỏ tới đầu bản doanh
50
Đây là đầm nổi đất lành
Để quân Dạ Trạch chiến tranh lâu dài
Lo cho những bước tương lai
Cái ăn ,cái ở ,gần hai vạn người
Săn chim ,bắt cá , vịt trời
Trồng cấy lương thực ,ngô khoai , lúa mầu
Ba quân tướng sỹ ,bảo nhau
Giành thóc gieo mạ ,vụ sau cho lành
Khoai dại ,củ súng làm canh
Quang Phục ,cùng với dân lành xẻ chia
60
Bấy giờ tên tướng Lương kia
Trần Bá Tiên : Đã xăm xia ngó dòm
Những lùm lau sậy tối om
Mênh mông đầm nước tanh ngòm bốc hơi
Đem quân vây bủa khắp nơi
Trùng trùng điệp điệp ,kín nơi ra vào
Ngẩng đầu cất giọng nói cao
Làm sao - Dạ Trạch ra vào được đây
Số phận định liệu từng giây
Hơn vạn quân tướng đến ngày đói thôi
70
Chỉ cần vây chặt được rồi
Ta không cần đánh chỉ ngồi đợi xem
Dạ Trạch chẳng chịu ngồi im
Đêm đêm cho lính truy tìm dò la
Hành tung quân giặc vây ta
Đã bày ra kế cho ta lâu dài
Cho quân sản xuất lúa khoai
Dùng thừa không hết phơi hoài cất kho
Sức người cày kéo thay bò
Dạ trạch cũng kéo để cho quân nhìn
80
Một lòng gây dựng niềm tin
Không phân biệt dưói với trên ,công bằng
Lòng quân khấn khởi gia tăng
Không khí sản xuất băng băng đi đầu
Vượt qua thiếu thốn cùng nhau
Nghĩa quân thoát đói ban đầu đã no
Từ đây Quang Phục không lo
Sợ nghĩa quân đói như chò - Bá Tiên
Bủa vây nhiều tháng ngày liền
Bá Tiên đâu được ngồi yên mà nhìn
90
Dạ Trạch thám thính biết tin
Không khoanh tay đứng chịu nhìn giặc Lương
Đóng quân khắp mọi nẻo đường
Gây bao khó dễ đau thương quân mình
Đêm đêm cho lính đến rình
Gặp thời đánh úp giết binh lính thù
Lương thực của định ta thu
Gây cho giặc đói kêu chu tréo giời
Lâm vào cảnh khổ trên đời
Quân giặc kêu khóc bỏ nơi đầm lầy
600
Bá Tiên - khi ấy mới hay
Cái chò cho lính bủa vây của mình
Không làm Dạ trạch ,sợ ,kinh .
Mà còn thiệt hại cho mình quân Lương
Ba chân bốn cẳng tìm đường
Thu quân rút khỏi chiến trường xa bay
Đến năm canh ngọ mới hay
( năm 550 )
Nhà Lương suy yếu phen này nguy to
Bá Tiên : mặt tái, bụng lo
Chia quân bớt lại giao cho Dương Sàn
10
Canh trừng Dạ Trạch to gan
Còn mình về nước dẹp an triều đình
Thế là dàn mỏng quân binh
Quân Lương suy yếu quân mình mạnh hơn
Một ngày vua Dạ trạch vương
Từ đầm lầy nổi bốn phương phất cờ
Biết rõ trong bụng giặc lo
Tung quân tiến đánh chẳng cho chúng về
Gươm đao giáo mác chỉnh tề
Đuổi theo giết giặc dọc đê sông hồng
20
Đánh chìm thuyền giặc trên sông
Tiến lên phía bắc chiếm thành kinh đô
Ba quân tướng sỹ reo hò
Giết chết cả được tướng to : Dương Sàn
Thế là Nước Việt bình an
Khôi phục độc lập vua an dân lành
Mùa xuân lại mãi nở xanh
Tiếng chim lại hót trên cành cây cao
Cá tôm bơi lượn đầy ao
Nhân dân nô lức hội vào hội ra
30
Lúa vàng chum vại đầy nhà
Lợn kêu eng éc, vườn nhà gà bay
Gái trai nô nức cấy cày
Trẻ thơ đánh đáo ,đánh quay sân đình
Đèn treo cửa tết lung linh
Hoa xuân nở nụ cười xinh đang về
Dạ trạch hóng kiệu về quê
Một hôm xa giá huyện quê ; Đường Hào
Dừng chân nghỉ lại ngắm sao
Đêm nằm ngủ thấy mộng vào giấc mơ
40
Một nam ,một nữ bấy giờ
Đến bên vua đọc bài thơ rất dài
Xin vua thâu nhận cả hai
Một em gái với anh trai
Quê hương nơi ấy Bảo Đài - Lôi Dương
Ở vùng châu Ái dặm trường
Cha làm hào trưởng Lôi Dương
Tên là : Nguyễn Bộ ,tính thường thẳng ngay
Mẹ tên là : Đặng thị Châu .!
Anh em quỳ xụp chân này rồi tâu
50
Xin theo Dạ Trạch dựng xây nước nhà
Dạ Trạch nhìn lại nhìn qua
Giật mình mới biết thì là …nằm mơ..
Giáp Đường – Đặng Xá bấy giờ
Người dân nô nức dưới cờ ngó lên
Trước là chào bái vua hiền
Sau là tỏ mặt vua hiền Trạch Vương
Đám đông có cả Ngọc Nương
Tò mò sán tới tỏ tường ngắm vua
Bất ngờ ẩn hiện nắng trưa
60
Trạch vương thấy bóng người vừa thoảng qua
Giống người trong mộng đêm qua
Bấy giờ tuyên gọi mới là hỏi xem
Ngọc Nương tấu bẩm vua xem rõ ràng
Tên người , tên họ ,tên làng
Giống y như giấc mơ vàng Trạch vương
Vui mừng kinh ngạc lạ thường
Trạch vương lại hỏi Ngọc Nương câu này
Anh trai nàng cũng có đây ?
Tên gọi thường ngày có phải : Chiêu Công ? ”
70
Ngọc Nương khi mới nghe xong
Ngạc nhiên bối rối trong lòng vấn vương
Nhưng nàng tâu rõ tỏ tường
Anh trai tiện thiếp tên thường Chiêu Công
Khi nghe nàng mới tâu xong
Trạch vương bỗng thấy trong lòng vui thay
Hai người trong giấc mộng này
Đứng ngay trước mặt vua ngây ngất lòng
Trạch vương đã bị siêu lòng
Cho rằng điền báo mộng trong tốt lành
80
Một ngày nắng đẹp trời xanh
Như bao các bậc vua lành ngày xưa
Vua bao nhiêu vợ cho vừa
Trạch vương cho tuyển kẻ đưa người hầu
Lấy liền ba vợ cùng nhau
Vậy mà vẫn tuyển thêm hầu thêm phi
Thế rồi tuyển một nàng phi
Người làng Trâm Nhị ; đó thì Ngọc Nương
Đến từ giấc mộng đêm trường
Trạch vương đã thấy Ngọc Nương đêm này
90
Dịu dàng quốc sắc đẹp thay
Thiếu nữ nhan sắc lung lay khuynh thành
Nết na thùy mị thông minh
Bước lên ngồi kiệu lung linh về triều
Phi tần Đệ Tứ vua yêu
Vua ban tước hiệu trong triều
Ban tên mỹ hiệu : Xuân Hoa cho nàng
Chiêu Công cũng được phong quan
Quản lĩnh thủy bộ ngàn ngàn quân binh
Biên cương giặc rã đang rình
700
Hở cơ là đánh nước mình cướp ngôi
Gặc Lương đã lại đánh rồi
Trạch Vương tin tưởng cho vời Chiêu Công
Phong chức: Thái úy tướng công
Kiêm chức : Đại soái ,Giáp đồng võ quan
Dẫn quân vượt núi băng ngàn
Đến miền biên ải đánh ngàn giặc lương
Giết mười tướng giặc cản đường
Ba vạn quân sỹ nhà lương rơi đầu
Một vạn bỏ xác rừng sâu
10
Năm ngàn đói rách cúi đầu xin tha
Chiêu công tuân chỉ vua nhà
Tha chúng tội chết ,cút xa đất này
Ngàn ngàn quân sỹ trong tay
Hô vang chiến thắng ,tin này bay xa
Ngọc Nương hầu hạ vua nhà
Sau dèm cổ động dân ta ,tự mình.
Cho con,cho cháu tòng binh
Tham gia giữ Nước Việt mình yên vui
Tộc Lê ,Tộc đặng theo rồi
20
Tộc Trần ,Tộc Vũ cũng thời ra theo
Tộc Đinh ,Tộc Phạm còn nghèo
Nhưng lòng vẫn quyết đi theo vua hiền
Tộc Hoàng : Đặng xá đầu tiên
Dẫn con em tới vua hiền xung binh
Giữa mùa xuân đẹp lung linh
Thêm bao sức mạnh lòng dân giệt thù
Noi gương lão tướng Phạm Tu
Quyết không hề sợ ,giặc thù Nhà Lương
Sẵn sàng chấp nhận đau thương
30
Một lòng theo Dạ Trạch vương đánh thù
Dẹp tàn quân ,đến mùa thu
Hai bên giao chiến Ta-Thù giao tranh
Đánh lui đánh tới tranh giành
Ngày ròng tháng rã bất thành thắng thua
Chiêu Công mưu lược không vừa
Dùng nhiều kế hiểm đánh lừa giặc lương
Thế là vua Dạ Trạch vương
Lại một lần nữa đánh Lương tan tành
Quân ta thắng trận lẫy lừng
40
Trạch vương mở hội ăn mừng ,phong công
Chiêu Công ,được Dạ Trạch : phong
Triết Gia : là tước – Quận Công : là hầu
Giao cho canh giữ Mũ mâu
Thủa xưa : Rồng tặng, đội đầu Trạch Vương
Thắng trận trên mọi chiến trường
Bỗng dưng NướcViệt tai ương ập về
Xảy ra nội chiến mới ghê
Xưa Lý Nam Đế tin về Trạch vương
Giao binh quyền lại : đánh Lương
50
Đánh xong thì lại xưng vương ngang hàng
Sánh ngang với đức vua Lương
Ngày xưa Lý Bí coi thường
Lý Phật Tử , chạy giặc Lương sang Lào ( Đất lào )
Giặc Lương săn đuổi gắt gao
Tìm Lý Thiên Bảo sang Lào cùng anh
Chiêu binh mãi mã dựng thành
Ba quân tướng sỹ ,động lành Dã lang
Vào năm ất hợi mùa trăng
( năm 555 )
Lý Phật Tử ngước nhìn trăng nói vào
60
Cải trang họ Lý – sang Đào
Từ nay hãy gọi là : Đào Lang Vương
Vào năm thứ bẩy Trạch vương
Lý Thiên Bảo ,chết tuyệt đường không con
Binh quyền nay mất không còn
Cũng vì là bởi không con nối đường
Thế là : Ngôi Đào Lang Vương
Về : Lý Phật Tử hãy còn nhơ nhơ
Vào năm đinh sửu bấy giờ
( năm 557 )
Lý Phật Tử đã tỉnh bơ làm liều
70
Chẳng cần phải đắn đo nhiều
Kéo quân về đánh vương triều Trạch Vương
Dành ngôi nhà lý đã nhường
Ngày xưa Lý Bí đã nhường trao cho
Hai bên giao chiến cam go
Quân Lý Phật Tử thua to rút về
Chân tay què quặt kéo lê
Quan quân tướng sỹ bốn bề xuýt xoa
Phật Tử xin được cầu hòa
Xin chia đất cát với nhà Trạch vương
80
Trạch vương nghĩ mủi lòng thương
Bèn cho quân sỹ cắt nhường đất cho
Vì tình họ Lý mà cho
Đền ơn Lý bí giao cho binh quyền
Đó là đức tính hiếu hiền
Căn cứ vẫn phải giữ nguyên
Đất bãi xưa vẫn , giữ yên màn Trò
Chỉ cho đất đã nổi gò Ô Diên
Trạch vương ở đất Long Biên
Phật tử ở đất ô diên Bãi Quần
90
Lấy làng Thượng Cát ít dân
Làm danh giới giữa hai quân ,hai nhà.
Thế rồi kêt nghia thông gia
Con trai phật tử tên là , Nhã lang
Con gái Vua Dạ Trạch Vương
Tên là : Công chúa Cải Nương , mượt mà
Mặc lời văn võ dèm pha
Trương Hống ,Trương Hát , Tướng nhà can ngăn
Chiêu Công can Trạch Vương rằng
Một rừng hai Hổ y rằng đánh nhau
800
Đề phòng kế độc mưu sâu
Mà Lý Phật Tử cầm đầu bày ra
Nhớ về 5 Thế kỷ qua
Gương soi thủa trước : Triệu Đà – Thục Vương
Cúi xin đức Dạ Trạch vương
Đừng gả công chúa cho phường Nhã Lang
Trạch vương điềm tĩnh đàng hoàng
Các khanh đừng có bàng quan thế mà
Hãy gả công chúa nhà ta
Cho nhà họ Lý, hiếu hòa là xong
10
Buồn phiền lo bụng Chiêu Công
Bèn xin cáo thác việc công bỏ về
Dành thời gian với miền quê
Chăm lo cha mẹ bốn bề an khang
Cha mẹ khuất núi vua sang
Có suy, có xét ,vua ban nhân từ
Phòng Lý Phật Tử mưu mô
Tất ngày binh biến nhiều chò xảy ra
Chiêu công bỏ bạc tiền ra
Tuyển mộ tướng sỹ cùng là rèn binh
20
5.6 - Cuộc nội chiến giữa Lý Phật Tử và Dạ Trạch vương
Phòng khi đất nước biến binh
Một tay giúp sứcvua mình dẹp nguy.
Thế rồi lời đoán tiên tri
Chiêu công đã đoán tức thì sảy ra
Lý Phật Tử dẫn binh qua
Đánh nhau cướp lại ngôi vua về mình
Trạch vương cử tướng dẫn binh
Trương Hống ,Trương Hát ,cháu mình đi mau
Thái úy : Chiêu Công đứng đầu
Móng rồng thần ở mũ mâu trợ phù
30
Cung tên ,giáo mác chặn thù
Một ngày trời đẹp mùa thu canh dần ( năm 570 )
Trạch vương do dự phân vân
Chủ quan phòng bị để quân địch vào
Lý Phật Tử đánh ào ào
Vua quan Dạ trạch chạy vào chạy ra
Thua trận cũng bởi tại là :
Âm mưu Phật Tử - Triệu Đà giống nhau
Đã dùng kế hiểm mưu sâu
Giả đò ý hợp tâm đầu , thông – gia
40
Gả con gái lấy người ta
Trộm mũ mâu lấy về nhà Nhã Lang
( Mũ móng ồng thần )
Mũ rồng thần của Trạch Vương
Chẳng còn linh nghiệm ngày thường rồng ban
Thua trận đến biển Đại Nha
Gieo mình tự vẫn đó là Trạch Vương
Chiêu Công cũng bị cùng đường
Trong trận địch chém bị thương khắp người
Sông hồng nhuộm đỏ máu tươi
Chiêu công tuẫn tiết lộn người xuống sông
50
Hai ngàn quân sỹ xuống cùng
Nhân dân cảm kích tấm lòng Chiêu Công
Xây đền dựng miếu thờ ông
Cùng vàn quân sỹ ,khúc sông ông nằm
Đời ông sáng tựa trăng rằm….
Mười bốn tháng bảy ông nằm đáy sông
Vào năm Tân mão mũ rồng đem theo
( 14 / 7 / năm 571 )
5.7- NGOC NƯƠNG ĐỆ TỨ PHI - DẠ TRẠCH VƯƠNG
Trạch vương đã cưới Ngọc Nương
Đem vào cung cấm dễ thường mười năm
Mặt xinh như thể trăng rằm
Đêm đêm nàng vẫn cạnh nằm hầu vua
Trong rèm ấp ủ ước mơ
60
Nhưng mà số phận đâu chừa một ai
Mười năm trời chẳng có thai
Để sinh Hoàng tử ngày mai kề thừa
Thương trời nàng khóc như mưa
Rồi xin Dạ Trạch vào Chùa xuất gia
Tu tâm tại đất quê nhà
Quê hương yêu dấu Trang gia : Bảo đài
( nay thuộc thiệu hóa – Thanh hóa )
Trạch vương đã cấp lệnh bài
Ngọc Nương được phép ở ngoài cấm cung
Ở Chùa tu Phật ,tu lòng
70
Vua ban mấy vạn bạc dòng đem theo
Sửa chùa còn lại bao nhiêu
Tô son ,vẽ tượng, dựng nêu ,Giáp Đường
Đặng Xá : Làm chốn tựa lương
Là nơi tu pháp mở đường từ bi
Đã xa trần tục mọi khi
Nhưng tim bà vẫn mãi vì nước non
Nghe tin Dạ Trạch không còn
Chiêu Công cũng đã lòng son giệt thù
Hy sinh trong trận đánh thù
80
Ngọc Nương đau đớn ngồi tu cửa thiền
Tụng kinh niệm phật hóa tiên
Trung trinh liệt nữ , Phi hiền Trạch vương
Dân lanh đã rủ lòng thương
Dâng hương thành kính miếu đường ngàn thu …
5.8 - Truyền thuyết mũ mâu ,móng rồng của Dạ Trạch vương
Trạch vương đã quá xem thường
Khiến bao hiểm họa tai ương ập về
Lý phật Tử giở trò hề
Đánh cắp được mũ mâu về dương dương
Móng rồng trên mũ chỉ đường
90
Đánh thắng được Dạ TrạchVương thua rồi
Thế là tuyên cáo dưới trời
Xưng vương ,xưng đế thay trời trị dân
Vào năm tân mão mùa xuân
( năm 571 )
Cũng nhờ có móng rồng thần mũ mâu
Câu truyện sự thể như sau :
Mũ mâu Dạ Trạch đội đầu
Ở trên đầm nước ngay đầu bến sông
Đó là sức mạnh tiên rồng
Dạ Trạch đã được Thần rồng truyền cho
900
An dân giữ nước dựng cờ
Nhưng nay bị mất có ngờ được đâu
dống truyện Trọng thủy –Mỵ châu
Truyện tình cùng với mũ mâu – nỏ thần
Trạch vương lại vấp một lần
Giống vua Thục Phán mùa xuân năm nào
Bởi lòng đã quá tin vào
Những phường lang sói mưu cao gậm giường
Nhã Lang lời ngọt mật đường
Dụ dỗ công chúa : Cảo Nương chỉ đường
10
Dạy cho binh pháp Trạch Vương
Để về dẫn lối chỉ đường cho cha
Dẫn binh bắt trước Triệu Đà
Đánh chiếm cha vợ đó là Trạch vương
Cũng vì công chúa :Cảo Nương
Một lòng một dạ quá thương yêu chồng
Đâu ngờ lòng dạ của chồng
Rắp tâm đánh tráo móng rồng mũ mâu
Mắc lừa kế hiểm mưu sâu
Khiến Trạch vương phải theo hầu tổ tiên
20
Không nghe lời tướng hiếu hiền
Trương Hống , Trương Hát ,võ biền can ngăm
Bây giờ để lại áng văn
Trong lòng đất, nước . Như hằn bóng mưa
Ngỡ còn đây bóng người xưa
Những đêm Dạ trạch chèo khua sóng dồn
Quân reo lửa cháy bên đồn
Lau sậy tua tủa kinh hồn giặc Lương
Thế là xố phận Trạch vương
Đã theo xố phận Thục Vương thuở nào …
30
5.9- Hậu Lý Nam Đế ( Năm 571 – 602 )
Đánh thắng được Triệu Việt Vương
Lý Phật Tử đã xưng vương trị vì
Từ năm tân mão trở đi
( năm 571 )
Kinh đô Nước Việt chuyển về phong Châu
Phật Tử : phong tước ,phong hầu
Lý Đại Quyền : Giữ phía đầu Long Biên
Lý Phổ Định : Giữ Ô Diên
Khiến Tùy Văn Đế một ngày phát điên
( Vua nước Tùy )
Lý phật Tử xưng vương trên
Sánh ngang Văn Đế vua bên Nhà Tùy
40
Từ năm nhâm tuất trở đi
( năm 602 )
Vua :Văn Đế của nhà Tùy đã sai
Lưu Phương : Danh tướng có tài
Dụ lý phật Tử bỏ ngai ra hàng ( Ngai vàng )
Dọa Lý phật Tử không hàng
Cho quân làm cỏ dân làng sạch trơn
Lòng Lý Phật Tử căm hờn
Thương dân lên đã tấu đơn xin hàng
950
Chương 6 : BẮC THUỘC LẦN 3 NHÀ TÙY - ĐƯỜNG VÀ CÁC CUỘC KHỞI NGHĨA (603 -939 )
6.1 – NHÀ TÙY - ĐƯỜNG
Lý Phật Tử đã quy hàng
nhà Tùy thôn tính dễ dàng Giao châu
bổ quan cai trị cầm đầu
chia thành ba quận dưới châu rõ ràng
Quân binh đao kiếm sẵn sàng
châu trị tráng lệ nghênh ngang Tống bình ( Hà nội nay )
Trị vì được hai tám năm
( 28 năm )
Nhà tùy sụp đổ đêm rằm tháng giêng
10
nhà Đường kế nghiệp nổi lên
Truất ngôi lấy nghiệp ngôi vương Nhà Tùy
Từ năm tân tỵ trở đi
( Năm 621 )
Vua Đường cao tổ tức thì lại sai
Khâu Hòa ;Tổng quản sang ngay
Làm quan cai trị trong ngoài giao châu
Đến năm kỷ mão bắt đầu
( năm 679 )
Vua Đường cao tổ chia châu nhỏ dần
Giao châu phía bắc cửu chân
Chia mười hai quận nhỏ dần trị dân
( 12 quận)
20
Năm mươi chín huyện bé dần
( 59 Huyện )
Còn thêm cấp xã gọi là Đại Nương
( Đơn vị cấp xã nay )
Số hộ chỉ khoảng năm trăm
Một quan nho nhỏ trông nom trị vì
Tên gọi giao chỉ mọi khi
Đổi thành tên mới tức thì An Nam
Tòa Đô hộ phủ được làm
Nước ta tên gọi : An Nam .Bắt đầu …
Quản luôn cả bốn mốt châu
( 41 châu )
“ Kimi” nhỏ bé cao , lâu ,Tày ,Nùng
30
Đến năm tân hợi Nhà Đường
( Năm 711 )
Lập thên mấy cấp phủ đường coi dân
Một là : Phong châu đô đốc phủ quan
( Vùng Sơn tây , Phú thọ , Tạng )
Hai là : Hoan châu đô đốc phủ quan
( Vùng Nghệ Tĩnh , Lục Hạp , Ái Châu )
Đặt thêm quan trị muôn dân
Đó là : “ Kinh lược sứ ” thần chức quan
Đó là : “ Đô hộ phủ ” Quan
Đấy là đường lối Vua quan Nhà Đường
Chia nhỏ châu quận thành Hương
( tổ khu phố ngày nay )
Dễ bề cai trị dân thường An nam
40
Chính sách thít chặt dân hơn
Khiến lòng dân Việt oán hờn từ đây
Hợp lòng dành lại đất này
Các cuộc khởi nghĩa từ đây bắt đầu .
Ngọn cờ hạnh phúc bền lâu
6.2- KHỞI NGHĨA MAI THÚC LOAN ( Mai Hắc Đế , Năm nhâm tuất 722 )
Bấy giờ ở quận Thạch Hà
Miền quê Nghệ Tĩnh , nước ta còn nghèo
Có nhà họ Khúc rất neo
Mò cua bắt ốc ,băm bèo nuôi con
Một mình thân mẹ héo hon
50
Bởi cha cậu bé không còn trần gian
Tên cậu là Mai Thúc Loan
Da đen mắt sáng ,dáng phàm tướng quân
Bởi là con của nông dân
Bé teo đã phải quét sân ,quét nhà
Chăm lo giúp việc mẹ cha
Ngày dỗi làm mướn cho nhà phú ông
Lại còn theo mẹ lên rừng
Hái rau kiếm củi bữa nưng bữa đầy
Một ngày mẹ chẳng gặp may
60
Gặp con hổ giữ ban ngày đuổi theo
Rẽ cây ,rẽ cối vèo vèo
Xông lên hổ cắn :Mẹ theo cha rồi
Thúc Loan nghe hổ gầm trời
Vội quăng gánh củi rẽ đời đến xem
Chao ơi đau đớn lòng em
Xác mẹ đã chết hổ đem dày vò
Nhe lanh man rợ gầm gừ
Thúc Loan chẳng chốn trần trừ xông lên
Quật ngay con hổ ngã liền
70
Chém luôn mấy nhát như điên vào đầu
Chẳng trờn hay sợ bị đau
Hổ còn vẫn cứ gầm gừ dọa nhau
Hổ kia đã bị đòn đau
Mai Thúc Loan đánh trúng đầu bị thương
Thú giữ đã bị cùng đường
Cắm đầu tháo chạy tứ phương vào rừng
Thắng hổ mà khóc dưng dưng
Cả đời cha mẹ nhờ rừng nuôi ta
Bây giờ mất mẹ mất cha
80
Một mình thui thủi một nhà than ôi
Từ nay thân phận mồ côi
Cày thuê cuốc mướn nuôi đời vươn lên
Gánh gồnh xóm dưới làng trên
Cho cô ,cho bác, cho quên đau lòng
An nhàn thì đến trường dòng
Học lỏm vài chữ để lòng đỡ ngu
Lớn lên đọc sách binh thư
Thúc Loan : Đô vật ai mà đọ đây
90
Từng ăn giải cạn : đông - tây
( không ai dám thi đấu)
Xuân về nắng đẹp vui đời
Theo phường săn thú học rồi theo săn
Giết được hổ chúa sơn lâm
Lòng dân đã phục tấm lòng ThúcLoan
Hiền tài ,Trí dũng song toàn
Mọi người khâm phục tôn Loan đứng đầu
Thủ lĩnh quân sự “ đầu phu ” của làng” ( chức xã đội ,làng )
Đầu phu là một chức quan
Trông nom quân sự tràng An bổ về
100
Giặc Chà và quá nhiêu khê
( Gia va - indonéia )
Chúng đem quân đánh cướp về Châu Hoan
Côn lôn cướp phá tai ương
( Mã lai miến điện)
Lại thêm cái ách nhà Đường
Nhân dân cực khổ tứ phương gầm trời
Bắt dân cống quả vải tươi
Phu phen ,thuế giáng xuống đời người nam
Khổ cực dân khắp Châu hoan
Nguyên do tại ở Trường an Vua đường
Có nàng tỳ thiếp họ Dương
10
Quý phi là vợ vua Đường háu ăn
Cứ mùa vải chín hằng năm
Châu hoan lại phải lo toan cống Đường
Thu gom mua vải tứ phương
Rồi sai gồnh gánh cống Đường ,Trường An
Đoàn người gánh quả vải sang
Vào mùa vải chín trường an đỏ bừng
Giữa năm nhâm ngọ ,gánh ,bưng
( năm 722 )
Thúc Loan cõng vải trên lưng cống Triều
Đường xa mệt mỏi đã nhiều
15
Đầm đìa nhễ nhại mồ hôi áo quần
Vậy mà vẫn phải lê chân
Giãi dầu mưa nắng thêm gần đường xa
Cùng nhau đỡ mệt đường xa
Mai Thúc Loan mượn căn nhà nghỉ ngơi
Trước là đêm cũng tối rồi
Sau là lại sức nghỉ ngơi đường dài
Đỡ cơn khát cháy lòng ai
Qua cơn kiệt sức một hai phu già
Thế là chuyện lớn sảy ra
20
Một dân phu đã tuổi già
Đương khi cơn khát chưa qua lúc này
Vặt một quả vải cầm tay
Vải còn đương bóc tên tay ăn thì :
Tên lính áp tải cùng đi
Rút thanh mã tấu chém thì chết tươi
Thương cho số phận con người
Vua Đường áp bức với người Nước nam
Xảy ra trước mắt Thúc Loan
Khiến lòng đau đớn muôn vàn thương dân
25
Mai thúc Loan chẳng tần ngần
Rút gươm chém chết tên quân vừa rồi
Nhanh như tia chớp lửa trời
Trong cơn bãp táp lòng người than ôi
Chiến tranh đã xảy ra rồi
Quan quân khiếp vía ấy thời vây quanh
Đánh nhau giữa những phu – binh
Gốc cây đòn gánh trở thành gươm đao
Chống lại ác bá cường hào
Mai Thúc Loan cũng xông vào đánh nhau
30
Chém hết lũ giặc rơi đầu
Mai Thúc Loan cũng bị đau thương nhiều
Nhưng con tim nói bao điều
Cứu dân ,Cứu nước ,tình yêu thôi đành
Thổi bùng khí thế đấu tranh
Biến vụ bạo động trở thành nghĩa quân
Chẳng màng tướcvị công thần
Hiệu triệu trăm họ lòng dân kết đoàn
Đứng lên đánh chiếm Trường An
Chọn miền Rú Đụn núi ngàn Hùng Sơn
40
Bốn bề thăm thẳm giang sơn
Làm nơi căn cứ rửa hờn nghĩa quân
Chẳng cho giặc dảnh tay chân
ThúcLoan chủ động tiến quân đánh thành
Đánh váo Châu trị Châu Hoan
Đánh tan tác nũ quân quan nhà Đường
Truyền đi lời hịch bốn phương
Gọi lòng dân Việt vững đường non sông
Từ căn cứ địa hùng sơn
Nghĩa quân đã mở rộng hơn địa bàn
50
Xây thêm thành mớiVạn An
Quy mô to lớn xứng ngàn núi sông
Thúc Loan tìm cách kết thông
Với các thủ lĩnh quân đông trong ngoài
Có thêm lực lượng tương lai
Trước khi tiến đánh phủ ngoài Giao Châu
Mai Thúc Loan có công đầu
Quân dân tôn Đế ngôi đầu An nam
( vua )
Xưng vương hiệu nước An nam
Là ; Lý nam Đế , người nam kính sùng
60
Đúng là dòng dõi Vua Hùng
Trăm dân muôn họ lại chung một nhà
Mùa xuân rực rỡ muôn hoa
Vua Mai Hắc Đế ban ra triều đình
Tiến quân đánh chiếm Tống Bình
Quan quân ,tướng sỹ hùng binh đồng lòng
Chẳng cần phải đánh lòng vòng
Quân ta đánh thẳng vào trong Tống bình ( Hà nội nay )
Giết chết mấy vạn giặc binh
Trùm đô hộ sứ tự mình thoát thân
( quan đứng đầu )
70
Bỏ luôn cả lũ quân thần
Ba chân bốn cẳng xa gần tháo lui
Quang Sở Khách : phải chạy rồi
( Tên quan đô hộ sứ an nam )
Nghĩa quân đã lấy lại trời giang sơn
Lòng dân rửa được oán hờn
Nơi nơi nô lức vui hơn thường ngày
Cờ hoa phấp phới tung bay
An nam đã có những ngày tự do
Nghĩa quân ngày một lớn to
Mười vạn quân sỹ reo hò ,cờ bay
80
Nhà Đường khi ấy sức đầy
Sức quân còn mạnh trong tay chẳng trờn
Vua Đường cay đắng hoảng hồn
Xua quân mười vạn đánh luôn cướp thành
Ồ ạt đánh úp thật nhanh
Men theo lối hiển đến thành Vạn an
Quân ta nghỉ sức an nhàn
Vui mùng chiến thắng chủ quan đề phòng
Giặc Đường đánh úp từ trong
Quân ,Mai Hắc Đế : yếu vòng rút lui
90
Không đương đầu nổi giặc rồi
Thu quân lánh lạn núi đồi ,rừng sâu
Một ngày còn ở rừng sâu
Lý Nam Đế : đã ốm đau băng hà
An nam đã mất vua nhà
Nghĩa quân sớm đã tan ra dưới trời
Còn gì đau đớn người ơi
Dân An nam lại đến thời lầm than
Vua đường vốn đã gian tham
Thừa cơ tàn sát người nam trả thù
200
Xác người đắp đống thành gò
Gia tăng tội ác càng to trong lòng
Nhớ Mai Hắc Đế anh hùng
Con dân nướcViệt vô cùng nhớ ơn
Đền thờ lập khắp giang sơn
Ngàn thu ghi nhớ công ơn đời đời..
6.3 – KHỞI NGHĨA PHÙNG HƯNG (Bố cái đại vương 791-802)
Vào năm Đại lịch thứ hai
Nhà Đường suy yếu Châu ngoài Châu trong
Đó là đời : Đường Thái Tông
Giặc Chà Và hướng biển đông đánh vào
( Inđonesia )
Phía tây nam giáp Ai lao
( Lào )
10
Giặc Côn Lôn cùng tiến vào cướp dân
( Mã lai )
Đêm ngày quấy nhiễu thần dân
Quan “ kinh lược sử ” nhà Đường ngồi im
( Chức quan đời Đường )
Trương Bá Nghi – Sợ thót tim
Chờ quân cứu viện nằm im trong thành
Vua Đường sai : Cao Chính Bình
Đem quân sang cứu giúp thành Cửu chân
Cứu nguy cho lũ quan thần
An nam nhút nhát bỏ dân nằm ì
Chính Bình dẫn đạo quân đi
20
Dẹp tan quân cướp tức thì Côn Lôn
Giết hết giặc Chà Và luôn
Chính Bình liên tiếp phá đồn tấn công
Giết hết được giặc lập công
Vua Đường phong tước thưởng công Chính Bình
Phong làm Đô hộ An nam
Phế đi những lũ quan tham thường ngày
Binh phù đã lọt vào tay
Chính Bình ác độc phơi bày trước dân
Ra tay tàn sát cả dân
30
Vơ vét của cải vào thân Chính Bình
Đau đớn dân ở Tống bình
Vậy là khốn khổ điêu linh
Cơ hàn ,cực khổ trăm bề đớn đau
Gốc cây tán lá gầm cầu
Mưa đâu trú đấy chẳng đâu là nhà
Bấy giờ trong nghĩa quân ta
Có người dũng tướng tên là : Phùng Hưng
Phùng Hưng là cháu bảy đời
Của Phùng Tói Cái là người Cam lâm
( Đương lâm sơn tây )
40
Đời đường cao tổ trị dân
Một năm đón tết mùa xuân đẹp trời
Vua : Đường Vũ Đức , tuyên mời
Vào cung dự tiệc rạng ngời đời ông
Một chức quan nhỏ đường lâm
Vua Đường sủng ái ân cần ban cho
Rạng danh phùng tộc nở to
Cháu con tiếp bước tôn phò vinh danh
Cháu đời thứ sáu Hạp Khanh
50
Làm hào trưởng của dân làng Đường lâm ( Vùng Sơn tây )
Là người có đức có tâm
Dựng cờ khởi nghĩa lung linh
Ngày xưa cùng với vua lành Thúc Loan ( Lý Nam Đế )
Dưới cờ kêu gọi người nam
Một lòng cứu lấy giang san về mình
Mù thu trăng sáng tim mình
Hạp Khanh cáo thác việc binh xin về
Mở điền trang ở miền quê
Trí thú làm đủ mọi nghề sinh xôi
60
Chăm lo con cháu bốn bề giầu xang
Thuê thêm hàng vạn người làm
Lúa ngô ,khoai sắn , kho làm giữ khô
Bao nhiêu tiền của ,trâu bò
Hạp Khanh nâng đỡ giúp cho dân nghèo
Chỉ cần họ vững tâm theo
Lòng ông vững bước mái chèo tương lai
Hạp Khanh có một vợ hai
Con gái : họ Sử làng ngoài đường lâm
Vốn lòng có phúc có tâm
70
Vào đêm mưa hét gió gầm sinh ra
Một lần sinh hạ được ba
( đẻ sinh ba )
Ba chàng trai trẻ con nhà Hạp Khanh
Vào năm canh tý trong lành
( năm 760 )
Phùng Hưng to khỏe làm anh cả rồi
Ham làm , học chữ ,tu đời
Thông minh dũng trí tinh ranh hơn người
Khí phách cũng rất tuyệt vời
Phùng Hưng không ngớt được người người khen
Đánh trâu ,giết hổ ,luyện tên
80
Nhân dân yên ổn quê miền đường lâm
Phùng Hải tính nết lặng thầm
Được làm con thứ vững tâm nhau rồi
Phùng Dĩnh con út nhất thôi
Chẳng hề nhút nhát dưới trời đường lâm
Cùng nhau lãnh đạo nhân dân
Ba chàng trai trẻ có tâm có tài
Vượt bao vất vả phôi thai
Hợp lòng dân lại trong ngoài bùng lên
Dựng cờ khởi nghĩa bốn bên
90
Ngàn vạn binh sỹ đến miền Phong châu
Rèn binh luyện võ cùng nhau
Chia quân năm đạo rừng sâu dựa vào
Có năm võ tướng đứng đầu
Phùng Hưng là tướng đứng đầu quân binh
Phùng Hải , Phùng Dĩnh theo anh
Tân mùi mùa hạ trong lành tháng tư (Tháng4 /791 )
Lòng quân , lòng tướng căm thù
Cùng nhau ra trận giệt thù nuôi binh
Giết hết quân Cao Chính Bình
300
Giết hơn bốn vạn quân binh nhà Đường
Bẩy ngày chiến đấu ngoan cường
Cao Chính Bình đã bị thương trong thành
Ngày đêm lo sợ chiến tranh
Lăn quay ra ốm chết thành thây ma
6.4 – BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG
Thế là chiến thắng về ta
Từ đây nạn khỏi tai qua dân mình
Xuân về hoa nở lung linh
Phùng Hưng coi chính sự mình Nước nam
Niềm vui rộn rã hân hoan
10
Từ nay dân Việt an nhàn vui chơi
Chim bay rộn rã bầu trời
May bay theo gió tìm nơi hẹn hò
Bến sông văng vẳng câu hò
Lũy tre xanh mát cánh cò trăng bay
Đồng làng dân cấy dân cày
Mùa vui thơm thóc về đầy ai ơi
Trẻ già hoan hỷ nói cười
Đàn trâu tắm mát trẻ bơi sông làng
Hà trưởng cho đến quan lang
20
Chăm lo quốc sự cho làng yên vui
Giảm thu thuế khóa con người
Đường quê ngõ xóm nói cười tung hô
Học sinh cho đến cụ đồ
Dạy nhau cái chữ tiền đồ siêng năng
Đêm đêm dưới ánh vầng trăng
Quân binh dưới bóng chị hằng luyện công
Một lòng gìn giữ non sông
Mà như tim ngỡ trăng lồng bóng hoa
Phùng Hưng dạy nghĩa quân nhà
30
Thương dân như thể thương cha mẹ mình
Đó là đạo của tim mình
Phùng Hưng đã khắc tên mình núi sông
Trông coi việc nước bẩy năm
Mùa thu nhâm ngọ tối sầm trời mây
( năm 802 )
Lòng trời ,lòng đất có hay
Lòng người thê thảm trong ngày đau thương
Con dân nướcViệt đau buồn
Phùng Hưng đã thác tại luôn quê nhà
Băng hà đúng tối mười ba
( ngày 13 )
40
Trung tuần tháng chín lịch ta bây giờ
( ngày 13 /9 /802 )
Lòng dân ghi nhớ tôn thờ
Suy tôn công đức bấy giờ ngôi vương
Hiệu là : Bố Cái Đại Vương
Phùng An nối gót con đường cha đi
Nối ngôi kế nghiệp trị vì
Hai vai gánh nặng ấy thì nước non
Với nền tự chủ còn non
Vua Đường nhòm ngó để còn tấncông
Thanh bình sông núi giang san
50
Quê hương đất nước vững vàng chín năm
(khoảng từ 791đến 802 )
Đến năm nhâm ngọ mùa xuân
( năm 802 )
Vua Đường ra sức thúc quân tiến vào
Triệu Xương là tướng mưu cao
Cầm quân tiến đánh thẳng vào an nam
Gầm trời gầm đất Nước nam
Con dân điêu đứng cơ hàn sảy ra
Vua đường thôn tính nước ta
Thêm một lần nữa nước nhà tai ương
Lòng người ,già trẻ đau thương
60
Triều đại : Bố Cái Đại Vương đã tàn
Chỉ còn trong sử nước nam
Phưng Hưng khi chết muôn vàn hiển linh
Hiện hình lên giúp dân mình
Giúp quan quân các triều đình kế sau
Linh thiêng ban phép nhiệm màu
Giúp vua kế tiếp triều sau Ngô quyền
Đánh tan Nam Hán uy quyền
Cho an nam được biển yên trời hồng
Đó là cọc gỗ trên sông
70
Ngô Quyền đã đóng trên sông bạch đằng
Ngàn năm muôn thủa vĩnh hằng
Phùng Hưng sáng tỏ như trăng bầu trời
Trong lòng dân Việt muôn đời
Lập đền lập phủ thờ người Đường lâm
Ngô Quyền vua sáng có tâm
Lập đền thờ vị anh hùng An nam
Ở vùng Quảng bá Nghi tàm
Ở vùng Triều khúc , Phương Trung nắng vàng
Ngô Quyền tuyên các quan lang
80
Đưa thi hài cốt về làng Đường lâm
Lăng mộ còn lại trống không
Nằm ngay phía cuối cánh đồng Quảng an ( giảng võ bây giờ )
Phùng Hưng vua của an nam
Mùa xuân mãi nở hoa xoan mãi về
385
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét